Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Với Con Người.

09/04/201312:54(Xem: 3920)
Phật Giáo Với Con Người.

Phật Giáo Với Con Người

Thích Như Điển

---o0o---

LỜI VÀO SÁCH

Cứ mỗi năm Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức lại tài trợ cho tôi viết một quyển sách, ngoài những giúp đỡ khác cho tờ báo Viên Giác, lễ lộc cũng như những chi phí phụ của chùa. Đây cũng là lý do và cũng là một động cơ thúc đẩy tôi phải cố gắng nhiều hơn nữa so với sự lưu tâm của Bộ Nội Vụ.

Mới đây, ông Dammermann là một Thượng Nghị Sĩ, từ Bonn đã đến thăm chùa sau hơn 15 năm Bộ đã giúp cho chùa rất nhiều phương diện qua các thời kỳ tiền nhiệm của ông Dr. Geißler, ông Dr. Lewandowski, bà thư ký Michael và lần nầy chính ông Dammermann đã thân chinh đến chùa để thăm cơ sở và tìm hiểu sơ qua sự sinh hoạt tại đây cũng như bàn bạc về vai trò của ngôi chùa cũng như Tôn Giáo, nhất là Phật Giáo cho kỳ triển lãm kỹ nghệ thế giới Expo năm 2000 từ tháng 6 cho đến tháng 10 của năm nầy. Ròng rã trong 5 tháng trời ấy, thành phố Hannover dự định đón nhận 35 triệu người từ trong nước Đức cũng như khắp nơi trên thế giới.

Một lượng khách lớn như thế và một chủ đề: Mensch, Natur und Technik = Con Người, Thiên Nhiên và Kỹ Thuật đã làm cho mọi người phải quan tâm đến, mà ngôi chùa Viên Giác nằm cách xa khu triển lãm nầy không quá 10 phút đi bộ.

Câu chuyện của 4 năm nữa phải còn bàn bạc rất nhiều lần và dĩ nhiên Phật Giáo Việt Nam cũng sẽ đóng góp phần tâm linh của mình vào sự phát triển của thế giới cũng như nhân loại trong hiện đại.

Mùa An cư kiết hạ cũng là mùa mà tôi có nhiều thì giờ nhất cho chính mình và đây cũng là cơ hội để tôi tĩnh tâm, tu niệm cũng như viết sách. Từ:

- 6 đến 7 giờ sáng mỗi ngày là giờ công phu khuya, thiền hành và thiền tọa.

- 7 giờ đến 8 giờ sáng là giờ viết sách của tôi.

- 8 giờ sáng Tăng chúng dùng điểm tâm trong chánh niệm.

- 9 đến 10 giờ tôi có thêm một giờ nữa để viết sách.

- 11 giờ đến 12 giờ là giờ quá đường và thiền hành, tụng kinh.

- 12 đến 2 giờ trưa là giờ chỉ tịnh.

- 2 giờ 30 đến 4 giờ 15 là giờ dạy học của tôi cho Tăng chúng trong mùa An cư cũng như cho các lớp Đức.

- 17 đến 18 giờ là giờ đọc sách.

- 18 giờ 30 dùng chiều trong chánh niệm.

Vào lúc 20 giờ tất cả mọi người vân tập nơi Chánh điện để lạy Kinh Đại Bát Niết Bàn, mỗi chữ mỗi lạy cho đến 21 giờ 30, sau đó là giờ của cá nhân.

Kinh Đại Bát Niết Bàn là một trong những kinh tối thượng thừa, Đức Phật đã nói trong 8 năm sau cùng của đời Ngài cùng với Kinh Pháp Hoa tại Linh Thứu Sơn nơi thành Vương Xá. Trong những năm tháng trước, khi mùa An cư kiết hạ đến, tôi có cho Tăng chúng và Phật Tử học các khóa giáo lý căn bản, kế đó là phát nguyện tu bát quan trai một ngày một đêm vào mỗi cuối tuần trong suốt mùa Kiết Hạ. Những năm sau đó tôi đã phát nguyện lạy kinh Ngũ Bách Danh (500 lạy), rồi Tam Thiên Phật Danh (3.000 lạy), rồi Vạn Phật (hơn 11.000 lạy); nhưng cảm thấy nội lực vẫn chưa tăng trưởng nhiều; nên tôi đã phát nguyện lạy kinh Pháp Hoa, mỗi chữ mỗi lạy.

Năm 1990 bắt đầu lạy kinh Pháp Hoa. Năm ấy lạy được 14.213 lạy. Năm 1991 lạy 13.767 lạy. Mặc dầu năm nầy có tổ chức lễ Khánh Thành chùa Viên Giác; nhưng Tăng chúng cũng rất tinh tấn trong việc tu hành. Đến năm 1992 lạy được 13.409 lạy. Năm 1993 lạy được 12.393 lạy. Năm 1994 có lẽ là năm lạy nhiều nhất, mặc dầu chỉ lạy trong 55 lần của mùa hạ, mà đến 17.090 lạy. Như vậy trung bình mỗi ngày lạy 310 lạy. Năm 1995 phần còn lại chỉ lạy trong 18 ngày, tổng cộng 5.130 lạy. Như vậy, nếu làm một con số thống kê ta sẽ có được 76.002. Trong kinh Pháp Hoa phần đầu có nói là hơn 60 ngàn lời được Đức Phật diễn thuyết; nhưng đó có lẽ là phần chữ Phạn hoặc chữ Hán, còn dịch ra tiếng Việt đã hơn 76 ngàn chữ vậy. Đây là một công đức rất thù thắng trong việc tu hành mà chùa Viên Giác cũng như cá nhân tôi đã thực hiện trong thời gian qua.

Tôi vẫn thường hay nói với quý Phật Tử rằng: tu phước cũng giống như cây đèn cầy; một ngày nào đó đốt mãi cây đèn cầy cũng phải hết. Riêng tu đức hoặc trí huệ cũng giống như ánh sáng của cây đèn cầy, sáng mãi không bao giờ hết. Nếu ta đem ánh sáng ấy thắp tiếp tục cho những ngọn đèn bên cạnh, ánh sáng lại càng tỏ rõ hơn nữa. Từ đó, chúng ta có thể hiểu, việc tu hành cả phước và huệ đều bổ sung cho nhau, không nên để thiếu một trong hai thứ ấy.

Đa phần chúng ta hay ít xử dụng tự lực mà chỉ muốn nương vào tha lực; nên con người, vốn đã yếu đuối, lại càng yếu đuối hơn nữa. Vì thế, tu tập là một việc làm rất cần thiết cho Phật Tử tại gia lẫn xuất gia.

Sau khi lạy xong kinh Pháp Hoa, tôi lại phát nguyện lạy tiếp kinh Đại Bát Niết Bàn. Kinh nầy gồm 2 tập. Mỗi tập không dưới 500 trang và chữ nhỏ hơn kinh Pháp Hoa, nên có lẽ phải lạy hơn 10 mùa hạ nữa mới xong. Việc tu hành không phải chỉ nhắm vào hình tướng. Vì tất cả cái gì có tướng đều hư vọng cả. Nhưng muốn đạt được tánh chân như, trước tiên phải nương vào tướng để hiển bày sự tu học là vậy. Có người phá chấp không cần lễ Phật nữa; nhưng riêng tôi thì chủ trương khác. Con người ai cũng có bịnh cả. Bịnh do nghiệp mà ra. Vả lại ta có thân nên phải có bịnh. Mà nghiệp thì có thể chuyển được. Muốn chuyển nghiệp thì phải tu. Chỉ có thế thôi. Mà tu thì phải đem thân lễ bái, đem tâm sám hối và đem miệng đọc tụng lời kinh Phật. Nếu ai ai cũng thực hiện được việc nầy thì nhơn gian nầy sẽ biến thành tịnh độ. Việc khó nào rồi chúng ta cũng sẽ thành tựu viên mãn.

Ngày xưa Phật còn tại thế có lẽ Ngài và chư Tăng an cư kiết đông chứ không kiết hạ. Vì mùa đông mới có mưa, còn mùa hạ thì khô ráo. Mùa mưa chính là mùa côn trùng hay sinh nở và không tiện cho việc đi khất thực, nên Đức Phật và chư Tăng ở lại tịnh xá để tham thiền và trau giồi giáo pháp. Đó cũng là thể hiện lòng từ bi đối với muôn loài vạn vật. Còn Việt Nam và Trung Quốc hay an cư kiết hạ vào mùa hè. Có lẽ đây thuộc về trường phái Bắc Tông, giữa Phật Đản và Vu Lan có 3 tháng chẳn; nên an cư vào 3 tháng ấy cũng hợp lý chăng, nên chư Tăng Bắc Tông an cư vào mùa nóng. Trong khi đó Nam Tông không có lễ Vu Lan nên không bị lệ thuộc vào 3 tháng mùa hè. Tuy nhiên ngày nay ở Việt Nam cũng như ngoại quốc có một vài nơi an cư kiết đông; nhưng cũng không tiện lợi mấy vì ít có người tham gia, chư Tăng phải theo học ngoại điển, mà trường học ở ngoại quốc và Việt Nam thời gian nghỉ hè 3 tháng nhưng nghỉ đông chỉ một tháng thôi. Do đó khó bề thực hiện được.

Ở Âu Châu nầy, nhất là nước Đức, mỗi năm có 4 mùa rõ rệt. Mùa Đông bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 3. Mùa Xuân từ tháng 4 đến tháng 6. Mùa Hạ từ tháng 6 đến tháng 9 và mùa Thu từ tháng 10 đến tháng 12. Mỗi mùa như vậy khí hậu thay đổi rõ rệt. Cây cối cũng theo đó mà đâm chồi nảy lộc hay tàn tạ theo khí hậu chung quanh. Nhưng có khi thời tiết cũng đổi thay đột ngột; đang nắng bỗng mưa, đang nóng bỗng lạnh. Có nhiều khi không có mùa xuân, mà từ đông, thời tiết đổi sang mùa hạ. Đôi khi trong hạ có những ngày lạnh kinh hồn. Hoặc giả đã sang đông; nhưng trời vẫn còn ấm áp. Lỗi ấy có lẽ không phải tại thiên nhiên, mà do con người làm ô nhiễm môi sinh nên thiên nhiên mới trừng phạt con người như thế ấy. Cách đây mấy ngàn năm về trước, con người sống trong sơ khai, hoang dã; nhưng tâm thức rất thảnh thơi. Con người khỏi lo chống chọi với mưa nguồn thác lũ. Bây giờ đây khoa học tiến bộ rất nhanh, đầu óc con người cũng tiến bộ theo đó; nhưng đồng thời sự văn minh của cơ giới và hóa học đã trở lại làm hại con người; nên con người trong hiện tại còn khổ đau hơn bao giờ hết. Đứng từ quan niệm của Phật Giáo, cách bảo vệ môi sinh hay nhất là mỗi người hãy tự có trách nhiệm với chính mình trong mọi hành động và cử chỉ, thì kết quả sẽ khác hẳn đi khi trách nhiệm ấy phải quy về cho tập thể và bắt tập thể phải có trách nhiệm như nhân loại hiện nay đang kêu gào. Tâm bình, thế giới bình; tâm loạn, thế giới loạn là vậy.

Trời mùa hạ năm nay (1996) bỗng chốc mưa, bỗng chốc nắng. Khó mà lường trước được khí hậu ở chốn nầy. Có ngày nhiệt độ lên tới 32 độ C; nhưng có hôm chỉ còn 20 độ C. Phật Đản 2540 năm được tổ chức vào ngày 31 tháng 5 và 1 & 2 tháng 6 năm 1996 có cả hơn 5.000 người về tham dự; nhưng trời vẫn không thương tiếc tấm lòng của những kẻ có tâm, mưa cứ rả rích rơi suốt trong 2 ngày lễ, mặc dầu vào chiều thứ sáu trước đó, ngày 31.5 là nhiệt độ khí hậu mùa hè, trời quang mây tạnh; nhưng đến sáng thứ bảy và chủ nhật nhìn bầu trời không khác nào mùa đông và nhiệt độ tự nhiên xuống rất thấp. Ở đây đi đâu, gặp ai và ở bất cứ chốn nào, câu gặp gỡ chào hỏi đầu tiên là sức khỏe, sau đó mới nói cho nhau nghe về thời tiết. Từ đó chúng ta thấy, thời tiết và sức khỏe của con người gắn chặt với nhau. Do vậy, việc chọn lựa an cư kiết hạ hay kiết đông của Đức Phật và chư Tăng ngày nay trên thế giới cũng có một tầm vóc rất quan trọng trong cuộc sống tâm linh của mình.

Con người ai cũng muốn có sự tự do,có nghĩa là không bị trói buộc bởi chung quanh. Cũng như thế đó, tu là tự tập cho mình đi đến sự giải thoát toàn diện. Giải thoát có nghĩa là cởi bỏ mọi sự ràng buộc của thế gian, ngay cả vật chất lẫn tinh thần. Sự giải thoát ấy chỉ có đuợc, khi mình tự chọn cho mình một lối đi. Mà giải thoát ở đây có nghĩa là giải thoát khỏi sự khổ đau, tục lụy, chứ không phải giải thoát khỏi tội lỗi. Từ điểm nầy tôi tự chọn cho mình một lối đi, có lợi cho chính mình và cho kẻ khác nữa. Cứ mỗi năm 3 tháng tôi có được những thời gian riêng cho chính mình và trong thời gian nầy tôi trở về với con người của chính mình. Cuộc chiến đấu nào cũng cam go và cạm bẫy cả. Riêng cuộc chiến đấu với nội tâm, tự mình phải làm chủ lấy mình là một cuộc chiến đấu rất khó khăn và đầy đủ giá trị thực tiễn của nó.

Năm nay quyển sách nầy được viết bằng hai thứ tiếng nhan đề là: Phật Giáo Với Con Người. Ở đây tôi sẽ cố gắng giới thiệu đến quý độc giả xa gần Việt cũng như Đức, từ dễ đến khó, từ lý thuyết đến thực hành và sau chương giới thiệu tổng quát về Phật Giáo, chúng tôi sẽ phân tích cặn kẽ Phật Giáo cho con người Á Châu, Phật Giáo cho người Việt Nam, Phật Giáo cho người Âu Mỹ và những vấn đề trong hiện tại mà người Phật Tử cần nơi Đạo Phật cũng như Đạo Phật thiết thực như thế nào đối với con người. Một đề tài như thế có tính cách nghiên cứu tổng quát và chi tiết; nhưng tôi sẽ cố gắng trình bày trong khả năng có thể của mình để mang đạo vào đời và mong rằng tác phẩm nầy sẽ góp một phần nhỏ tri thức trong cuộc sống tâm linh của mọi người.

Hôm nay tôi có được cơ hội nầy để gởi đến quý độc giả xa gần những điều căn bản của Đạo Phật là do ân đức của Tam Bảo mà có, cũng như ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha, ơn huấn dục của Thầy Tổ và ơn hộ trì của Đàn Na thí chủ. Tất cả những công đức lành nếu có được, xin hồi hướng đến pháp giới chúng sanh, trong ấy có những ân đức vừa kể.

Ngược lại, nếu có điều gì khiếm khuyết, kính mong chư tôn đức và các bậc thiện hữu tri thức chỉ bảo cho. Điều ấy rất hân hạnh cho người viết.

Ngoài ra cũng xin cảm ơn tất cả những anh chị em công quả, cận sự giúp đỡ chùa trong tất cả các khâu đánh máy, dịch thuật, in, ấn, sắp thành sách v.v... nên tác phẩm nầy mới thành hình. Xin vô vàng đa tạ những tấm lòng vì đạo ấy và cũng xin mãi mãi là những người luôn luôn hỗ trợ cho Phật Pháp được tồn tại lâu dài trên thế gian nầy.

Xin nguyện cầu cho mọi người được đầy đủ phước huệ để tiến tu đạo nghiệp và con đường giải thoát đang rộng mở thênh thang để đón mời những tâm hồn biết quay về bến giác.

Viên Giác tự vào đầu hạ năm 1996

Tác giả cẩn chí: Thích Như Điển

---o0o---


Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8153)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16538)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12516)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19963)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4448)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4329)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5043)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4265)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4250)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11621)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567