Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và sự khoan dung cho những dị biệt tôn giáo.

09/04/201312:54(Xem: 4085)
Phật giáo và sự khoan dung cho những dị biệt tôn giáo.

PHẬT GIÁO VÀ SỰ KHOAN DUNG
cho những dị biệt Tôn Giáo & Đức Tin

Sulak Sivaraksa

Mỹ Thanh dịch Việt

Để tránh việc đơn giản hóa, tôi đề nghị mỗi tôn giáo lớn trên thế giới nên bao gồm hai khía cạnh chánh: thứ nhất là Tình thương đại đồng, và thứ hai là tình thương đoàn thể trên hết tất cả tông phái, hoặc chỉ cho mình là trọng tâm.

Nếu chúng ta không cẩn thận, tôn giáo của chúng ta có thể trở nên cố chấp, vì chúng ta thấy chỉ có tôn giáo mình mới chân chính và đưa đến giải thoát, và những người khác tôn giáo là những kẻ lạc đường.

Thật không may, vẫn còn những tôn giáo vẫn tìm cách khuyến dụ người vào đạo, bằng những lý tưởng có hại , không sáng suốt. Tôi muốn nhắc đến một đoạn trong " Cuộc truyền giáo ở ngoại quốc" (Overseas Missionary Fellowship - August-September, 1987). Bài nầy có tựa đề là " Tìm tự do thật sự ở Thái Lan."

Đối với chín mươi chín phần trăm dân Thái, bị ảnh hưởng của ma quỷ là một nỗi sợ hãi lớn... Nhất là đối với những dân tộc bộ lạc tin vào thuyết duy linh (animistic), luôn cả những nhà thương mại giàu có, sinh viên, và nông dân chất phác, cũng không ngoại lệ...

Trong câu chuyện, trong chương trình truyền hình, hay những đồ trang trí của cá nhân hay nơi nhà ở cũng thể hiện ảnh hưởng nầy.

Hiện tại, chưa có gì cũng như chưa có ai có thể làm cho con người bớt nỗi lo sợ trong việc tìm cách ''vận dụng '' những sức mạnh của thần thánh, đồng thời họ cũng có thể trở thành nạn nhân của những sức mạnh nầy.

Nếu các bạn có đọc bài nầy, các bạn sẽ đi đến kết luận là dân Thái muốn được cứu rỗi phải nhờ đến những nhà truyền giáo, hoặc nếu là dân bộ lạc thì phải cần viện trợ của Mỹ. Tôi nghĩ rằng những người bám chặt vào tôn giáo hay lý tưởng là những người khó có thể kính trọng được người khác, nhất là những người nghèo, vì biết đâu những người nầy lại rất tự hào về tôn giáo của họ và chưa chắc là họ kém hơn những nhà giáo sĩ về phần tâm linh .

Thật ra danh từ "chủ nghĩa tông phái, bộ lạc" không phải là một từ ''làm giảm giá trị '', nhưng khi một tôn giáo lớn hay quyền lực tối cao trở thành ''tông phái '', thì nó dễ bị thoái hóa thành đạo đức giả và kiêu mạn, và từ đó có thể dẫn đến kỳ thị chủng tộc, như chúng ta thấy ở Nam Phi và những nơi khác. Tuy nhiên, nếu chúng ta chú tâm đến những khía cạnh của tôn giáo về tình thương đại đồng, thì chúng ta sẽ trở nên khiêm tốn hơn, vị tha hơn và thật sự kính trọng tất cả -- từ con người, thú vật, cho đến những hiện tượng thiên nhiên. Từ đây, sự phát triển về xã hội cũng như kinh tế sẽ trở nên bất bạo động. Chúng ta sẽ không còn tàn ác với đồng loại , và biết mến yêu trái đất. Chúng ta cũng không nhân danh sự phát triển mà cướp đoạt những tài nguyên thiên nhiên. Những khu rừng sẽ được bảo vệ, sông ngòi sẽ khỏi bị ô nhiễm. Và chúng ta sẽ hiểu rằng sự phát triển chỉ có thể xảy ra trong vòng hiểu biết giữa con người với muôn vật.

Để gạt bỏ chủ nghĩa: tông phái, bộ tộc, dân tộc, tư bản và tiêu thụ, người có tín ngưỡng cần phải thực tập với tình thương đại đồng. Trong khi chúng ta làm việc riêng hay tư, bất cứ ở đâu, chúng ta phải nên suy nghĩ một cách bao quát, để cho tính vị kỷ có thể từ từ trở thành vị tha.

Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ biết kính trọng những tôn giáo và những lý tưởng khác một cách hết lòng. Mặc dầu bạn có thể không hoàn toàn đồng ý với tầm nhìn và đức tin đó, bạn vẫn có thể kính trọng nó.

Kể cả khi chúng là những kẻ áp bức bạn, bạn cũng không cần ghét họ, vì sự thù ghét chỉ làm hại cho chính bản thân mà thôi.

Thay vì thù ghét những kẻ áp bức bạn, bạn nên tìm hiểu hệ thống áp bức và thử tìm cách để thay đổi nó, với tính cách bạn bè tốt giúp đỡ nhau, để khắc phục khó khăn, đau khổ, trong môi trường phát triển văn hóa và tâm linh -- cũng như phát triển xã hội và kinh tế.

Nếu bốn sự phát triển: văn hóa, tâm linh, xã hội và kinh tế được hợp nhất, tức thời sự phát triển thật sự của nhân loại sẽ được thể hiện.

Tiếc thay, trong hai thế kỷ qua, tình thương đại đồng nơi tôn giáo đã thoái hóa và dường như được thay thế bằng tình thương tông phái, và cho đến nay trở thành một quy tắc tiêu chuẩn.

Phần lớn các nhà thờ, nhà nguyện khoan dung và ủng hộ chế độ đang cầm quyền không cần thiết là chế độ đó áp bức hay không. ( Dĩ nhiên là có những ngoại lệ). Và khi mà chủ nghĩa tư bản xuất hiện, Tin lành, Công giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo dường như chỉ phục vụ cho những kẻ giàu có, trong khi những nhà giáo sĩ, tu sĩ thì chỉ phục vụ dân nghèo "bằng miệng."

Trong điều kiện tốt nhất, họ xung phong chăm sóc người nghèo túng, nhưng cho đến nay vẫn không có dấu hiệu gì cho thấy là vấn đề xã hội và kinh tế được thay đổi để bao người hưởng được sự công bình và hạnh phúc.

Tỷ lệ kém dinh dưỡng của trẻ em đang gia tăng, cùng với nạn du lịch mãi dâm, chế độ quân phiệt, chế độ tư bản và tiêu thụ cũng không giảm. Nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đang tìm cách liên kết với các giáo sĩ thế tục để thay đổi nơi đây thành một nơi an lành và ý nghĩa, nhưng cho đến nay cũng chưa tạo được những thay đổi căn bản phổ biến trong việc bảo đảm quyền lợi của con người khỏi sự bóc lột của chính trị và tôn giáo.

Tây Tạng, Miến Điện, và Bangladesh có những tình trạng đặc biệt, nhưng sự đau khổ, nói chung xuất hiện ở khắp mọi nơi. Thêm vào đó, sự thiếu thốn lương thực, nhà ở, quần áo, thuốc men cho một số đông các nước là một điều thật kinh khủng -- chưa nói đến sự khổ vì nước và không khí bị ô nhiễm.

Thật ra sự gia tăng của các giáo sĩ thế tục có học thức là một nguyên nhân chánh để hình thành một thế giới mới. Nhìn qua lịch sử thì chúng ta thấy:

Sự hướng dẫn xã hội từ lúc khởi đầu, thật ra, bắt đầu nơi các tu sĩ, người sao chép kinh sách, thầy bói, cùng những nhà trí thức ; nhưng sự cải tiến của họ về mặt đạo đức và lý tưởng bị hạn chế bởi những truyền thống lâu đời, cũng như những quyền lực bên ngoài. Và do đó, họ không thể trở thành những nhà tư tưởng tự do.

Với sự suy thoái về quyền lực của giới tu sĩ từ thế kỷ thứ mười tám, một loại nhà giáo dục mới xuất hiện để điền vào chỗ trống đó và họ đã chiếm được cảm tình của xã hội thời bấy giờ. Những nhà trí thức có thể là nhà thần học, kẻ hoài nghi, hay kẻ vô thần. Và họ cũng sẵn sàng chỉ dẫn con người về mặt đạo đức như những giám mục hay mục sư. Họ tuyên bố ngay từ buổi đầu, với sự nhiệt tâm làm lợi ích cho con người, với nhiệm vụ rao giảng phúc âm.

Sự hiểu biết tổng quát trong quá khứ, truyền thống, và những kinh nghiệm của người đi trước được chọn lựa kỹ lưỡng để được học theo hoặc bị loại bỏ.

Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, với sự lớn mạnh của niềm tự tin và lòng bạo dạn, con người đã vươn lên và lên tiếng là họ có thể phân tách những cái sai và có thể sửa chữa những điều nầy dựa vào sự hiểu biết của họ: Hơn nữa, họ có thể đặt kế hoạch mà nếu dựa vào đó, chúng ta có thể thay đổi kiến trúc xã hội, và những thói quen căn bản của con người cũng theo đó mà được hoàn hảo hơn. Không như những giáo chức đi trước, tự coi mình là người thay thế Thượng đế.

Những nhà trí thức đã soi xét kỹ lưỡng các tôn giáo đã giúp ích hay làm hại con người và những giám mục, giáo sĩ có giữ mình hay không, có thật sự từ bi và vị tha, và những kết luận được nhìn nhận nơi các giáo chức cũng như nhà thờ thật là không hay chút nào.

Trên hai thế kỷ qua, sự ảnh hưởng của tôn giáo đang trên đà suy thoái và những giáo sĩ thế tục, trí thức đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành quan điểm của chúng ta cũng như những tông phái. Nhìn vào những nhà trí thức trên thế giới đã góp phần hình thành thế giới sau cuộc cách mạng Pháp, Nga, cho đến sự cách mạng văn hóa ở Trung Hoa, và chế độ Pol Pot ở Cam bốt, tôi đi đến một kết luận khá đau lòng là những giáo sĩ đứng đầu, đã làm chúng ta thất vọng -- cho dù họ là Rousseau, Karl Marx, Tolstoy, Brecht, Bertrand Russell or Mao Tse-Tung.

Đặc biệt, nếu chúng ta chú ý đến những gì họ khuyên người khác về mặt giáo dục cũng như đạo đức, và so sánh với cuộc sống của cá nhân họ, -- thì sự liên hệ với gia đình, thân hữu, và đồng nghiệp nói chung thật là kinh khủng -- đấy là chưa nói đến đời sống sinh lý và cách tiêu xài của bản thân họ.

Một người sẽ tự hỏi không biết họ đã nói thật, và làm thế nào để phương thức của họ đứng vững với thời gian và tập quán. Thật ra họ cũng đem đến cho chúng ta những áng văn chương tuyệt đẹp, làm cho sự suy nghĩ của chúng ta nhạy bén hơn, nhưng đồng thời cũng góp phần trong sự đau khổ của nhân loại.

Theo thiển ý của tôi, những giáo sĩ thế tục cũng thất bại vì họ cũng trở nên quá dễ dãi và tự cao. Họ cũng thiếu sự cam kết về sự thay đổi bản thân, cũng như Tolstoy đã làm và thất bại. Nhưng lại có ảnh hưởng rất tốt đối với Gandhi và Martin Luther King.

Là một người Thái, tôi coi vị anh hùng dân tộc, Phya Anuman Rajadhon, người được hội UNESCO công nhận trong năm qua, là một nhà lãnh đạo trí thức, dù rằng ông ta không thông thái, hay nổi tiếng. Ông là người rất bình dị và khiêm tốn, chỉ tự xem mình là một người bình thường có thời gian để kính trọng mọi người, và khuyến khích mọi người trở nên hoàn hảo hơn cả chính ông ta.

Tôi nghĩ rằng khi mà chúng ta biết được giới hạn của chính mình và biết kính trọng người khác thì ít khi nào chúng ta đi sai. Chúng ta nên tìm cách phát triển cho chính bản thân cũng như xã hội dựa trên cách biết khen ngợi, sự hiểu biết về văn hóa của dân tộc mình -- luôn cả những phong tục về mặt tâm linh, kế đến là sự phát triển kinh tế sẽ không quá bị ngăn cách giữa kẻ giàu và người nghèo, và mọi người không phân biệt giàu nghèo đều có thể sống hạnh phúc.

Mặc dầu, Phật giáo với chữ '' P '' hoa vẫn có thể mang ý nghĩa lệch lạc, có thể bị sử dụng để củng cố chế độ độc tài hoặc những hội đoàn thiếu đạo đức, nếu chúng ta có thể chỉ hướng đến tình thương đại đồng thì chúng ta sẽ đánh vần chữ Phật giáo với chữ '' p '' nhỏ. Vì vậy chúng ta hãy bắt chước nối gót theo đức Phật, các bạn công giáo thì nối gót theo đấng Christ, và các bạn Hồi giáo nên dâng cái ngã của họ cho Allah.

Luật thứ nhất trong phật giáo với chữ '' p '' nhỏ được hiểu như sau:

" Đừng thần tượng quá, đừng bám viú vào bất cứ giáo điều nào, dù là lý luận hay lý tương; dù đó là lý luận, hay lý tưởng của Phật giáo. Tất cả những phương thức suy nghĩ chỉ là phương tiện; chúng không phải là Chân Lý."

(Giới thứ nhất của dòng Tiep Hien ).

Có lẽ đây là điều đối nghịch nhất đối với những lời dạy có tính cách giáo điều.

Thầy Thích Nhất Hạnh, vị tu sĩ Phật giáo, người Việt Nam, viết: " Nếu bạn có một khẩu súng, bạn có thể bắn một người, hai, ba, năm người, nhưng nếu bạn có một lý tưởng và bám chặt vào đó, nghĩ rằng đây là Chân Lý, thì bạn có thể giết hàng triệu người... Hòa bình chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta không bám viú vào một quan điểm, khi chúng ta không mù quáng."

Một khi bạn hiểu rõ và thực tập điều nầy trong đời sống hằng ngày, thì lúc ấy bạn sẽ biết tán thưởng tầm quan trọng của những dị biệt tôn giáo và niềm tin.

Nếu chúng ta có lòng, thì nên hợp nhất những dị biệt và tìm cách để làm giảm đi đau khổ của đồng loại. Chúng ta không nên gom góp của cải trong khi bao triệu người đang đói. Đây không phải là những lý tưởng xa vời; nếu chúng ta thực tập, có thể mang lại kết quả khả quan cho sự công bình trong xã hội và là bước đầu cho việc kiến tạo hòa bình.

Nhưng muốn thực hiện điều nầy với Chính niệm, chúng ta phải theo lời Thầy Thích Nhất Hạnh, " không nên để mình bị phân tán và đừng đánh mất mình nơi hoàn cảnh xung quanh."

Chúng ta nên "thực tập thở để lấy lại quân bình cho cơ thể cũng như tinh thần, thực tập Chánh niệm, để phát triển sự chú tâm và hiểu biết."

Phương cách nầy đưa đến sự phát triển " không hai ", nơi đây một người có thể sống an lạc với chính mình và như vậy người đó mới có thể thực hiện được việc kiến tạo hòa bình trên thế giới.

Chúng ta nên nhấn mạnh sự liên tục "bên trong" và "bên ngoài", gọi thế giới là " cái ngã lớn của chúng ta " như vậy chúng ta mới có thể hăng hái lo lắng cho nó. Tôi hy vọng quan điểm nầy sẽ hướng dẫn chúng ta trong việc tìm sự công bình cho xã hội, và kiến tạo hòa bình.

Mỗi người trong chúng ta phải tự kiểm những hành động của chính mình trong những liên hệ đối với cộng đồng xã hội. Tôi tin tưởng quan điểm nầy rất lợi ích cho việc phát triển thân cũng như tâm -- đó là sự phát triển toàn diện nơi con người.

Với tôi, để tạo dựng sự hiểu biết, sự kính trọng giữa con người với nhau trong các dị biệt tôn giáo hay niềm tin, một người cần phải có gì khác hơn là lý tưởng. Tâm linh phải được phát triển, không bám víu vào lý tưởng.

Một người đã nói: " Vấn đề lớn của tôn giáo hiện nay là phải làm sao, ta vừa là chiến sĩ, vừa là người thần bí; nói khác đi, làm sao để kết hợp sự tỉnh thức bên trong với những công tác xã hội bên ngoài, và làm thế nào để tìm được con người thật của mình ở hai nơi nầy."

---o0o---

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8104)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16344)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12374)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19770)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4405)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4293)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 4993)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4220)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4215)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11519)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567