Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Người Học thức hay Người Thông minh? Từ quyển Bình phẩm về Sống Tập 1

16/07/201100:30(Xem: 4296)
03. Người Học thức hay Người Thông minh? Từ quyển Bình phẩm về Sống Tập 1

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ HỌC HÀNH VÀ HIỂU BIẾT
ON LEARNING AND KNOWLEDGE
Lời dịch: Ông Không - 2009

Người Học thức hay Người Thông minh?
Từ quyển Bình phẩm về Sống Tập 1

Những cơn mưa đã rửa sạch bụi bặm và sức nóng của nhiều tháng, và những chiếc lá lấp lánh bóng loáng, kèm theo những chiếc lá non đang bắt đầu lộ diện. Suốt đêm ếch nhái lấp đầy không gian bằng những tiếng kêu ồm ộp; chúng sẽ nghỉ ngơi một chút rồi lại bắt đầu. Con sông chảy xiết, và không khí ẩm ướt. Những cơn mưa không dứt được. Những đám mây đang gom lại và mặt trời bị giấu kín. Quả đất, cây cối, và toàn bộ thiên nhiên dường như đang chờ đợi một tinh khiết khác. Con đường có màu nâu sẫm, và trẻ em đang nô đùa trong những vũng nước; chúng đang làm những cái bánh bằng bùn hay xây những lâu đài và nhà cửa có những bức tường vây quanh. Có hân hoan trong không gian sau nhiều tháng oi bức, và những đám cỏ xanh tươi đang bắt đầu che kín mặt đất. Mọi thứ đang tự-làm mới mẻ.

Mới mẻ này là vô nhiễm.

Con người nghĩ rằng anh ấy rất có học thức, và đối với anh ấy sự hiểu biết là chính bản thể của sống. Sống mà không có hiểu biết còn tồi tệ hơn là chết. Sự hiểu biết của anh ấy không phải về một hay hai sự việc nhưng còn bao phủ mọi lãnh vực của sống; anh ấy có thể tự tin nói về bom nguyên tử và chủ nghĩa cộng sản, về thiên văn và dòng chảy của nước trong con sông, về ăn uống kiêng khem và sự dư thừa dân số. Anh ấy tự hào lạ lùng về sự hiểu biết của anh ấy, và, giống như một con người khoe khoang sự thông thái, anh ấy mang theo nó để gây ấn tượng; nó làm cho những người khác phải im lặng và thể hiện sự kính trọng. Chúng ta sợ hãi sự hiểu biết đến chừng nào; chúng ta thể hiện sự kính trọng kinh hoàng đối với người có hiểu biết như thế nào! Tiếng Anh của anh ấy thỉnh thoảng khá khó hiểu. Anh ấy chưa bao giờ ra khỏi quốc gia của anh ấy, nhưng anh ấy có những quyển sách từ những quốc gia khác. Anh ấy nghiện ngập sự hiểu biết giống như những người khác có lẽ nghiện ngập rượu chè hay ham muốn nào khác.

‘Thông minh là gì, nếu nó không là sự hiểu biết? Tại sao ông nói người ta phải loại bỏ tất cả hiểu biết? Hiểu biết không cần thiết hay sao? Nếu không có hiểu biết, chúng ta sẽ ở đâu? Chúng ta sẽ vẫn còn như những người sơ khai, không biết gì về thế giới lạ thường mà chúng ta sống trong nó. Nếu không có hiểu biết, sự tồn tại ở bất kỳ mức độ nào sẽ không thể có được. Tại sao ông quả quyết rằng hiểu biết là một cản trở cho sự hiểu rõ?’

Hiểu biết là tình trạng bị quy định. Hiểu biết không trao tặng sự tự do. Người ta có lẽ biết cách chế tạo một chiếc máy bay và bay đến phía bên kia của thế giới trong vài tiếng đồng hồ, nhưng đây không là sự tự do. Hiểu biết không là nhân tố sáng tạo, bởi vì hiểu biết có tánh tiếp tục, và cái mà có sự tiếp tục không bao giờ có thể dẫn đến cái tuyệt đối, cái không thể nghĩ lường, cái không thể biết được. Hiểu biết là một cản trở đến cái khoáng đạt, đến cái không biết được. Cái không biết được không bao giờ có thể được bao bọc trong cái đã được biết; cái đã được biết luôn luôn đang chuyển động đến quá khứ; quá khứ luôn luôn đang tỏa bóng trên hiện tại, cái không biết được. Nếu không có tự do, nếu không có cái trí khoáng đạt, không thể có hiểu rõ. Hiểu rõ không theo cùng hiểu biết. Trong khoảng trống giữa những từ ngữ, giữa những tư tưởng, hiểu rõ hiện diện. Khoảng trống này là sự yên lặng không bị phá vỡ bởi hiểu biết; nó là cái khoáng đạt, cái không thể nghĩ lường, cái tuyệt đối.

‘Hiểu biết không hữu dụng, tối thiết? Nếu không có hiểu biết, làm thế nào có thể có khám phá?’

Khám phá xảy ra không phải khi cái trí bị nhét đầy hiểu biết nhưng khi hiểu biết không còn; chỉ đến lúc đó có trạng thái tĩnh lặng và không gian, trong trạng thái này hiểu rõ hay khám phá hiện diện. Rõ ràng hiểu biết có hữu dụng tại một mức độ, nhưng tại mức độ khác chắc chắn nó gây hủy hoại. Khi hiểu biết được sử dụng như một phương tiện của tự-phóng đại, để tự-thổi phồng, vậy thì nó là ma mãnh, nuôi dưỡng sự tách rời và thù địch. Tự-bành trướng là không hòa hợp, dù nhân danh Thượng đế, Chính thể, hay một học thuyết. Tại một mức độ hiểu biết, mặc dù bị quy định, có cần thiết: ngôn ngữ, kỹ thuật, và vân vân. Tình trạng bị quy định này là một bảo vệ, một cần thiết cho sống bên ngoài; nhưng khi tình trạng bị quy định này được sử dụng vào tâm lý, khi hiểu biết trở thành một phương tiện của sự thỏa mãn, sự thanh thản thuộc tâm lý, vậy thì chắc chắn nó nuôi dưỡng sự xung đột và hỗn loạn. Vả lại, bạn có ý gì qua từ ngữ biết? Thật ra bạn biết cái gì?

‘Tôi biết về quá nhiều sự việc.’

Bạn có ý nói bạn có nhiều thông tin, dữ kiện về nhiều sự việc. Bạn đã thâu lượm những sự kiện nào đó, và sau đó cái gì? Thông tin về thảm họa của chiến tranh ngăn cản những chiến tranh? Tôi chắc chắn bạn có nhiều dữ kiện về những ảnh hưởng của sự tức giận và bạo lực bên trong chính người ta và trong xã hội, nhưng thông tin này đã kết thúc sự hận thù và sự đối nghịch?

‘Hiểu biết về những ảnh hưởng của chiến tranh có lẽ không chấm dứt tức khắc những chiến tranh, nhưng cuối cùng nó sẽ mang lại hòa bình. Con người phải được giáo dục; họ phải được chỉ rõ những ảnh hưởng của chiến tranh, của xung đột.’

Con người là chính bạn và một người khác. Bạn có vô số thông tin này, và bạn ít tham vọng hơn, ít bạo lực hơn, ít tự cho mình là trung tâm hơn? Bởi vì bạn đã tìm hiểu những cách mạng, lịch sử của sự bất bình đẳng, bạn được tự do khỏi cảm giác cao cấp hơn, thấy mình quan trọng hơn? Bởi vì bạn có vô vàn hiểu biết về những thảm họa và những đau khổ của thế giới, bạn thương yêu? Vả lại, chúng ta biết cái gì, chúng ta có hiểu biết gì?

‘Hiểu biết là trải nghiệm được tích lũy qua những thời đại. Trong một hình thức nó là truyền thống, và trong một hình thức khác nó là bản năng, cả nhận biết được lẫn không-nhận biết được. Những kỷ niệm và những trải nghiệm che giấu, dù được truyền xuống hay được thâu lượm, hành động như một hướng dẫn và định hình hành động của chúng ta; những kỷ niệm này, cả thuộc chủng tộc lẫn cá thể, là cần thiết, bởi vì chúng giúp đỡ và bảo vệ con người. Bạn sẽ xóa sạch hiểu biết?’

Hành động bị định hình và bị hướng dẫn bởi sợ hãi không là hành động gì cả. Hành động là kết quả của những thành kiến thuộc chủng tộc, những sợ hãi, những hy vọng, những ảo tưởng, đều bị quy định; và tất cả bị quy định, như chúng ta đã nói, chỉ nuôi dưỡng xung đột và đau khổ thêm nữa. Bạn bị quy định như một người Ba la môn theo một truyền thống đã tiếp diễn trong hàng thế kỷ; và bạn phản ứng đến những kích động, đến những thay đổi và những xung đột xã hội, như một người Ba la môn. Bạn phản ứng tùy theo tình trạng bị quy định của bạn, tùy theo những trải nghiệm, hiểu biết thuộc quá khứ của bạn, thế là trải nghiệm mới mẻ chỉ quy định thêm nữa. Trải nghiệm tùy theo một niềm tin, tùy theo một học thuyết, chỉ là sự tiếp tục của niềm tin đó, sự tiếp tục của một ý tưởng. Trải nghiệm đó chỉ củng cố niềm tin. Ý tưởng gây tách rời, và trải nghiệm của bạn tùy theo một ý tưởng, một khuôn mẫu, khiến bạn tách rời thêm nữa. Trải nghiệm như hiểu biết, như một tích lũy thuộc tâm lý, chỉ quy định, và lúc đó trải nghiệm là một cách của tự-phóng đại khác. Hiểu biết như trải nghiệm tại mức độ tinh thần là một cản trở cho sự hiểu rõ.

‘Chúng ta trải nghiệm tùy theo niềm tin của chúng ta?’

Điều đó rõ ràng, đúng chứ? Bạn bị quy định bởi một xã hội đặc biệt – mà là chính bạn tại một mức độ khác – để tin tưởng Thượng đế, những phân chia xã hội; và một người khác bị quy định để tin tưởng rằng không có Thượng đế, để tuân theo một học thuyết hoàn toàn khác hẳn. Cả hai người sẽ trải nghiệm tùy theo những niềm tin của các bạn, nhưng trải nghiệm như thế là một cản trở đến cái không biết được. Trải nghiệm, hiểu biết, mà là ký ức, có hữu dụng tại những mức độ nào đó; nhưng trải nghiệm như một phương tiện của củng cố ‘cái tôi’ tâm lý, cái ngã, chỉ dẫn đến ảo tưởng và đau khổ. Và chúng ta có thể biết gì nếu cái trí bị nhét đầy những trải nghiệm, những kỷ niệm, hiểu biết? Liệu có thể đang trải nghiệm nếu chúng ta biết? Cái đã được biết không ngăn cản đang trải nghiệm à? Bạn có lẽ biết tên của bông hoa đó, nhưng nhờ đó bạn trải nghiệm được bông hoa? Đang trải nghiệm đến trước và đặt tên chỉ cho sức mạnh đến trải nghiệm đó. Đặt tên ngăn cản đang trải nghiệm thêm nữa. Muốn có trạng thái của đang trải nghiệm, phải không được tự do khỏi đặt tên, khỏi liên tưởng, khỏi qui trình của ký ức, hay sao?
Hiểu biết là hời hợt, và những điều hời hợt có thể dẫn đến cái thăm thẳm hay sao? Liệu cái trí, mà là kết quả của cái đã được biết, của quá khứ, có khi nào đi trên và vượt khỏi sự chiếu rọi riêng của nó? Muốn khám phá, nó phải ngừng chiếu rọi. Nếu không có những chiếu rọi của nó, cái trí không còn. Hiểu biết, quá khứ, có thể chiếu rọi chỉ những điều thuộc cái đã được biết. Dụng cụ của cái đã được biết không bao giờ có thể là dụng cụ khám phá. Cái đã được biết phải ngừng lại cho sự khám phá; người trải nghiệm phải ngừng lại cho đang trải nghiệm. Hiểu biết là một cản trở cho hiểu rõ.

‘Chúng ta còn lại gì nếu chúng ta không có hiểu biết, trải nghiệm, ký ức? Lúc đó chúng ta không là gì cả.’

Lúc này bạn là bất kỳ thứ gì nhiều hơn cái đó à? Khi bạn nói, ‘Nếu không có hiểu biết chúng ta không là gì cả’, bạn chỉ đang tạo ra một khẳng định mà không đang trải nghiệm trạng thái đó, phải không? Khi bạn đưa ra câu phát biểu đó, có một ý thức của sợ hãi, sợ hãi của không là gì cả. Nếu không có những tăng dần thêm này, bạn không là gì cả – mà là sự thật. Và tại sao không là cái đó? Tại sao lại có tất cả những khoe khoang và những tự phụ này? Chúng ta đã bao bọc trạng thái trống không này bằng những tưởng tượng, bằng những hy vọng, bằng vô vàn những ý tưởng gây thỏa mãn; nhưng ở dưới những bao bọc này chúng ta không là gì cả, không phải như sự trừu tượng thuộc triết lý nào đó, nhưng thực sự không là gì cả. Đang trải nghiệm của trống không đó là sự khởi đầu của thông minh.
Chúng ta bị mắc cở như thế nào khi chúng ta nói chúng ta không-biết! Chúng ta bao bọc sự kiện của không-biết bằng những từ ngữ và thông tin. Thật ra, bạn không-biết người vợ của bạn, người hàng xóm của bạn; làm thế nào bạn có thể biết khi bạn không-biết về chính bạn? Bạn có nhiều thông tin, những kết luận, những giải thích về chính bạn, nhưng bạn không nhận biết được cái là, cái tuyệt đối. Những giải thích, những kết luận, được gọi là hiểu biết, ngăn cản đang trải nghiệm cái gì là. Nếu không có vô nhiễm, làm thế nào có thể có thông minh? Nếu không chết đi quá khứ, làm thế nào có thể có mới mẻ lại của vô nhiễm? Chết đi từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Chết đi không là tích lũy; người trải nghiệm phải chết đi trải nghiệm. Nếu không có trải nghiệm, nếu không có hiểu biết, người trải nghiệm không còn. Biết là dốt nát; không-biết là sự khởi đầu của thông minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 7734)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 5861)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 31520)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17825)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
24/12/2021(Xem: 3779)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề xuyên suốt quá trình phát triển của nhân loại. Sự tác động lẫn nhau giữa thiện và ác, chính và tà định hình số phận của các cá nhân và xã hội theo các chu kỳ, có thể biết được và không nhìn thấy. Các vị triết gia và nhà tư tưởng đã cân nhắc không chỉ điều gì tạo nên những chất đạo đức thanh cao mà còn cả những trợ duyên tác động nó. Đạo đức nhân văn là ngành học nghiên cứu các nguyên tắc đạo đức chi phối hành vi hoặc cách cư xử của mỗi cá nhân, và nó cũng là mảng kiến thức liên quan đến các nguyên tắc đạo đức.
05/12/2021(Xem: 4138)
Khi đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu, chúng ta thiết lập các kết nối sâu sắc, và giúp những người xung quanh tránh bị kiệt sức.
17/11/2021(Xem: 20140)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16604)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10517)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11639)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567