Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Ojai, 6 tháng tám 1955

12/07/201100:50(Xem: 3388)
09. Ojai, 6 tháng tám 1955

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Ojai, 6 tháng tám 1955

Người hỏi: Tất cả những bất an của chúng ta dường như phát sinh từ ham muốn, nhưng liệu chúng ta có thể được tự do khỏi ham muốn? Ham muốn là bản chất cố hữu của chúng ta, hay nó là một sản phẩm của cái trí?

Krishnamurti:Ham muốn là gì? Và tại sao chúng ta tách rời ham muốn khỏi cái trí? Ai là thực thể mà nói, “Ham muốn tạo ra những vấn đề; vì vậy tôi phải được tự do khỏi ham muốn”? Chúng ta phải hiểu rõ ham muốn là gì, không phải hỏi làm thế nào loại bỏ ham muốn bởi vì nó tạo ra bất an và liệu nó là một sản phẩm của cái trí. Ham muốn phát sinh như thế nào? Tôi sẽ giải thích và bạn sẽ thấy, nhưng đừng chỉ lắng nghe những từ ngữ của tôi. Hãy thực sự trải nghiệm vấn đề mà chúng ta đang nói khi chúng ta theo dõi, và vậy là nó sẽ có ý nghĩa.

Ham muốn hiện diện như thế nào? Chắc chắn nó hiện diện qua nhận biết hay thấy, tiếp xúc, cảm giác, và sau đó ham muốn. Đầu tiên bạn thấy một chiếc xe hơi, tiếp theo có tiếp xúc, cảm giác, và cuối cùng ham muốn có chiếc xe, lái nó. Làm ơn hãy theo dõi điều này chầm chậm, kiên nhẫn. Vậy là, trong cố gắng có chiếc xe đó, mà là ham muốn, có xung đột. Vậy là trong chính sự thực hiện của ham muốn có xung đột; có đau khổ, phiền muộn, vui vẻ; và bạn muốn bám chặt vui thú và loại bỏ đau khổ. Đây là điều gì đang thực sự xảy ra cho mỗi người chúng ta. Cái thực thể được tạo ra bởi ham muốn, thực thể mà được đồng hóa với vui thú, nói, “Tôi phải loại bỏ điều mà không gây vui thú, mà gây đau khổ”. Chúng ta không bao giờ nói, “Tôi muốn loại bỏ vui thú và đau khổ”. Chúng ta muốn giữ lại vui thú và loại bỏ đau khổ, nhưng ham muốn tạo ra cả hai. Ham muốn, mà hiện diện qua nhận biết, tiếp xúc, và cảm giác, được đồng hóa như cái “tôi” mà muốn bám chặt vào vui thú và loại bỏ đau khổ. Nhưng đau khổ và vui thú đều là kết quả của ham muốn, mà là thành phần của cái trí; nó không ở bên ngoài cái trí; và chừng nào còn có một thực thể mà nói, “Tôi muốn bám chặt cái này và loại bỏ cái kia”, phải có xung đột. Bởi vì chúng ta muốn loại bỏ tất cả những ham muốn gây đau khổ và bám chặt những ham muốn mà từ căn bản gây vui thú, dễ chịu, chúng ta không bao giờ suy xét toàn vấn đề của ham muốn. Khi chúng ta nói, “Tôi phải loại bỏ ham muốn”, ai là thực thể đang cố gắng loại bỏ cái gì đó? Thực thể đó cũng không là kết quả của ham muốn hay sao?

Làm ơn, bạn phải có sự kiên nhẫn vô hạn để hiểu rõ những điều này. Đối với những câu hỏi cơ bản không có đáp án tuyệt đối của “đúng” hay “sai”. Điều gì quan trọng là đặt một câu hỏi cơ bản không tìm dược một đáp án; và nếu chúng ta có khả năng quan sát câu hỏi cơ bản đó mà không tìm kiếm một đáp án, vậy là chính sự quan sát câu hỏi cơ bản đó mang lại hiểu rõ.

Vì vậy vấn đề của chúng ta không là làm thế nào được tự do khỏi những ham muốn gây đau khổ trong khi lại bám vào những ham muốn gây vui thú nhưng phải hiểu rõ toàn bản chất của ham muốn. Điều này nảy sinh câu hỏi: xung đột là gì? Và ai là thực thể mà luôn luôn đang chọn lựa giữa vui thú và đau khổ? Thực thể mà chúng ta gọi là cái “tôi”, cái ngã, cái vị kỷ, cái trí mà nói, “Đây là vui thú; kia là đau khổ. Tôi sẽ bám chặt vui thú và loại bỏ đau khổ” – thực thể đó vẫn không là ham muốn hay sao? Nhưng nếu chúng ta có khả năng quan sát toàn lãnh vực của ham muốn, và không bị giới hạn trong bám chặt và loại bỏ cái gì đó, vậy thì chúng ta sẽ phát giác rằng ham muốn có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.

Ham muốn tạo ra mâu thuẫn, và cái trí hoàn toàn tỉnh táo không thích sống trong mâu thuẫn; vậy là nó cố gắng loại bỏ ham muốn. Nhưng nếu cái trí có thể hiểu rõ ham muốn mà không cố gắng gạt nó đi, không nói, “Đây là một ham muốn tốt lành hơn, và đó là một ham muốn xấu xa hơn. Tôi sẽ cố gắng giữ cái này và bỏ cái kia”, nếu nó có thể tỉnh thức được toàn lãnh vực của ham muốn mà không khước từ, chọn lựa, chỉ trích, vậy thì bạn sẽ thấy rằng cái trí là ham muốn, không tách rời khỏi ham muốn. Nếu bạn thực sự hiểu rõ điều này, cái trí trở nên rất tĩnh lặng. Ham muốn đến, nhưng chúng không còn có ảnh hưởng, chúng không còn có ý nghĩa to tát; chúng không còn bám rễ trong cái trí và tạo ra những vấn đề. Cái trí đáp lại – ngược lại nó không sống – nhưng đáp lại trên bề mặt và không bám rễ. Đó là lý do tại sao rất quan trọng phải hiểu rõ toàn tiến trình của ham muốn mà hầu hết chúng ta đều bị trói buộc. Bị trói buộc, chúng ta cảm thấy mâu thuẫn, đau khổ vô hạn của nó, vì vậy chúng ta đấu tranh chống lại ham muốn, và đấu tranh tạo ra sự phân hai. Nếu chúng ta có thể quan sát ham muốn mà không nhận xét, đánh giá, hay chỉ trích, vậy thì chúng ta sẽ phát giác rằng nó không còn bám rễ. Cái trí trao tặng đất màu cho những vấn đề không bao giờ có thể tìm được cái đúng thực. Vậy là vấn đề không phải làm thế nào giải quyết ham muốn nhưng hiểu rõ nó, và người ta có thể thực hiện điều đó chỉ khi nào không có sự chỉ trích về nó.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2015(Xem: 24988)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
08/02/2015(Xem: 7928)
Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, không chỉ theo cảm nhận thông thường, có một sự bắt đầu và có sự chấm dứt. Như vậy là hợp lý; đấy là quy luật; đấy là tự nhiên. Cho nên bất cứ chúng ta gọi là Big Bang hay điều gì như vậy đi nữa, có một tiến trình tiến hóa hay một tiến trình của sự bắt đầu. Cho nên phải có một sự chấm dứt. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, tôi nghĩ sự chấm dứt hay tận thế sẽ không xảy ra trong vài triệu năm nữa. Bây giờ, sự ô nhiễm. Như quý vị biết tôi đến từ Tây Tạng. Khi chúng tôi ở Tây Tạng, chúng tôi không có ý tưởng về ô nhiễm. Mọi thứ rất trong sạch! Trong thực tế, lần đầu tiên khi tôi biết qua ô nhiễm và nghe mọi người nói về rằng tôi không thể uống nước, nó làm tôi ngạc nhiên. Cuối cùng kiến thức của chúng ta được mở rộng.
23/01/2015(Xem: 5041)
Các tôn giáo nên hợp tác với nhau hầu góp phần mang lại một nền hòa bình cho toàn thế giới. Nếu tìm hiểu cặn kẽ những lời ủy thác do các vị sáng lập tôn giáo đã lưu lại cho chúng ta ngày nay, thì tất chúng ta sẽ hiểu rằng những lời ấy đều đã được ghi sẵn trong kinh sách của mỗi tôn giáo, và nhất loạt nêu lên trọng trách của mỗi người chúng ta trong xã hội.
05/01/2015(Xem: 19115)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 16812)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
11/12/2014(Xem: 9190)
Ngày nay, nhân loại đã tiến bộ rất xa về mặt khoa học, kỹ thuật, đã làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày, từng giờ và thậm chí từng phút, từng giây, nên đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội v.v… đều được nâng cao một cách đáng kể.
22/11/2014(Xem: 23442)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
15/11/2014(Xem: 16808)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
24/10/2014(Xem: 11770)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
20/10/2014(Xem: 27761)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567