Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Bombay, 19 tháng hai 1950

12/07/201100:50(Xem: 3328)
06. Bombay, 19 tháng hai 1950

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Bombay, 19 tháng hai 1950

Người hỏi: Qua những hoạt động như Liên Hiệp Quốc và Hội nghị Hòa Bình Thế giới, con người khắp thế giới đang thực hiện một nỗ lực cá thể và tập thể để ngăn ngừa một chiến tranh thế giới lần thứ ba. Nỗ lực của ông khác biệt với nỗ lực của họ như thế nào, và ông hy vọng đạt được bất kỳ những kết quả đáng kể nào không? Chiến tranh có thể được ngăn ngừa?

Krishnamurti: Đầu tiên chúng ta hãy giải quyết những sự kiện rõ ràng và sau đó thâm nhập sâu thêm nữa vào vấn đề. Chúng ta có thể ngăn ngừa chiến tranh hay không? Bạn nghĩ gì? Con người nhất quyết tàn sát lẫn nhau; bạn nhất quyết tàn sát người hàng xóm của bạn – có lẽ, không bằng những cây kiếm, nhưng bạn đang trục lợi họ, chính trị, tôn giáo, và kinh tế. Có những phân chia ngôn ngữ, cộng đồng, xã hội, và bạn không đang hối hả thực hiện tất cả điều này hay sao? Bạn không muốn ngăn ngừa chiến tranh bởi vì một số người các bạn sắp sửa kiếm được tiền bạc. Những người xảo quyệt sắp sửa kiếm được tiền bạc, và những người khờ khạo cũng sẽ muốn kiếm được tiền bạc nhiều thêm. Vì Chúa, hãy thấy sự xấu xa, sự vô lương tâm của nó! Khi bạn có một mục đích đã sắp đặt để kiếm được bằng bất kỳ giá nào, kết quả là điều không tránh khỏi. Chiến tranh thế giới lần thứ ba bắt nguồn từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh thế giới lần thứ hai bắt nguồn từ lần thứ nhất, và lần thứ nhất là kết quả của những chiến tranh trước. Nếu bạn không chấm dứt nguyên nhân, chỉ chắp vá những triệu chứng chẳng có ý nghĩa gì cả. Một trong những nguyên nhân của chiến tranh là chủ nghĩa quốc gia, những chính phủ cầm quyền, và mọi điều xấu xa theo cùng chúng – quyền hành, thanh danh, vị trí, và uy quyền. Nhưng hầu hết chúng ta đều không muốn chấm dứt chiến tranh bởi vì sống của chúng ta không trọn vẹn, toàn tồn tại của chúng ta là một bãi chiến trường, một xung đột vô tận, không những với người vợ của chúng ta, người chồng của chúng ta, người hàng xóm của chúng ta mà còn cả với chính chúng ta – đấu tranh liên tục để trở thành cái gì đó. Đó là sống của chúng ta, trong nó chiến tranh và bom khinh khí chỉ là những chiếu rọi hoành tráng và bạo lực. Chừng nào chúng ta còn không hiểu rõ toàn ý nghĩa của sự tồn tại của chúng ta và tạo ra một thay đổi cơ bản, không thể có hòa bình trong thế giới.

Bây giờ vấn đề thứ hai còn khó khăn hơn nhiều, còn đòi hỏi sự chú ý của bạn hơn nhiều – mà không có nghĩa rằng vấn đề thứ nhất là không quan trọng. Sở dĩ hầu hết chúng ta đều không chú ý nhiều lắm đến sự thay đổi của chính chúng ta do bởi chúng ta không muốn được thay đổi. Chúng ta mãn nguyện và không muốn bị quấy rầy. Chúng ta hài lòng khi chúng ta đang sống như chúng ta là hiện nay. Và đó là lý do tại sao chúng ta đang gửi con cái của chúng ta đến chiến tranh, tại sao chúng ta phải có sự huấn luyện quân sự. Tất cả các bạn đều muốn cất giữ những tài khoản ngân hàng của các bạn, bám chặt vào tài sản của các bạn – tất cả đều nhân danh không-bạo lực, nhân danh Thượng đế và hòa bình, mà là hành động bậy bạ của tinh thần tôn giáo. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ hòa bình? Bạn nói Liên Hiệp Quốc đang cố gắng thiết lập hòa bình bằng cách tổ chức những quốc gia thành viên của nó, mà có nghĩa nó đang cân bằng quyền lực. Đó là sự theo đuổi hòa bình hay sao?

Rồi thì còn có sự tập họp của những cá thể quanh một ý tưởng nào đó của điều gì họ nghĩ là hòa bình. Đó là những cá thể phản đối chiến tranh tùy theo hoặc là sự tin tưởng về đạo đức của anh ấy hoặc là những ý tưởng về kinh tế của anh ấy. Chúng ta đặt hòa bình hoặc là trên một nền tảng thuộc lý trí hoặc là trên một nền tảng thuộc đạo đức. Chúng ta nói chúng ta phải có hòa bình bởi vì chiến tranh không gây lợi lộc, mà là lý do thuộc kinh tế; hay chúng ta nói chúng ta phải có hòa bình bởi vì nó là vô đạo đức khi giết chóc, nó là vô tôn giáo, con người có tánh thiện ngay trong bản chất của anh ấy và không bị hủy diệt, và vân vân. Vậy là có tất cả những giải thích này của lý do tại sao chúng ta không nên có chiến tranh; những lý do thuộc đạo đức, nhân đạo, lương tâm, hay tôn giáo biện minh cho hòa bình ở phía này và những lý do thuộc xã hội, kinh tế, lý trí ở phía kia.

Bây giờ, hòa bình là vấn đề của cái trí? Nếu bạn có một lý do, một động cơ cho hòa bình, điều đó sẽ mang lại hòa bình? Nếu tôi kiềm chế giết chết bạn bởi vì tôi nghĩ nó là vô đạo đức, đó là hòa bình hay sao? Nếu vì những lý do kinh tế tôi không tham gia quân đội bởi vì tôi nghĩ nó không sinh ra lợi lộc, đó là hòa bình hay sao? Nếu tôi đặt nền tảng hòa bình của tôi trên một động cơ, trên một lý do, điều đó có thể mang lại hòa bình hay sao? Nếu tôi thương yêu bạn bởi vì bạn đẹp đẽ, bởi vì bạn làm thỏa mãn tôi phần thân xác, đó là tình yêu hay sao? Điều này rất quan trọng. Hầu hết chúng ta đã vun quén những cái trí của chúng ta, chúng ta sử dụng trí năng quá nhiều, đến độ chúng ta muốn tìm ra những lý do cho việc không giết chóc, những lý do gây ra sự hủy diệt thảm khốc của bom nguyên tử, những tranh cãi thuộc kinh tế và đạo đức cho hòa bình, và vân vân; và chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng có những lý do cho việc không giết chóc nhiều bao nhiêu, càng có hòa bình nhiều bấy nhiêu. Nhưng liệu bạn có thể có hòa bình qua một lý do? Hòa bình có thể chuyển thành một nguyên nhân hay sao? Chính nguyên nhân không là bộ phận của xung đột hay sao? Liệu không-bạo lực, hòa bình là một lý tưởng phải được theo đuổi và cuối cùng đạt được qua một tiến trình từ từ của tiến hóa hay sao? Tất cả những điều này là những lý do, những giải thích duy lý, phải không?

Vì vậy nếu chúng ta chín chắn, câu hỏi của chúng ta thực sự là liệu hòa bình là một kết quả, tác động của một nguyên nhân, hay hòa bình là một trạng thái của đang là, không phải trong tương lai hay trong quá khứ nhưng ngay lúc này. Nếu hòa bình, nếu không-bạo lực là một lý tưởng, chắc chắn nó thể hiện rằng thực ra bạn là bạo lực: bạn không hòa bình. Bạn ao ước là hòa bình, và bạn nêu những lý do tại sao bạn nên là hòa bình; và, bởi vì được thỏa mãn với những lý do, bạn giữ nguyên tình trạng bạo lực. Thực ra, một con người là hòa bình, một con người tìm kiếm sự cần thiết của trạng thái hòa bình, không có lý tưởng của hòa bình. Anh ta không tạo ra một nỗ lực để trở nên hòa bình nhưng thấy sự cần thiết, sự thật của là hòa bình. Chỉ con người không thấy sự quan trọng, sự cần thiết, sự thật của là hòa bình, mới chuyển không-bạo lực thành một lý tưởng – mà thực sự chỉ là một trì hoãn của hòa bình. Đó là điều gì các bạn đang làm, tất cả các bạn đang tôn thờ lý tưởng của hòa bình và trong khoảng giữa thụ hưởng bạo lực. Các bạn cười, các bạn dễ dàng vui đùa. Nó là một giải trí khác; và khi các bạn rời khỏi sự gặp gỡ này, các bạn sẽ tiếp tục chính xác như trước kia! Các bạn mong đợi có hòa bình bởi những tranh luận hời hợt và nói chuyện ngẫu nhiên? Bạn sẽ không có hòa bình bởi vì bạn không muốn hòa bình; bạn không hứng thú nó, bạn không thấy sự quan trọng, sự cần thiết của có hòa bình ngay lúc này, không phải ngày mai. Chỉ khi nào bạn không còn lý do cho hòa bình, bạn sẽ có hòa bình.

Chừng nào bạn còn có một lý do để sống, bạn không đang sống, phải không? Bạn sống chỉ khi nào không có lý do, không nguyên nhân – bạn chỉ sống. Tương tự, chừng nào bạn còn có lý do cho hòa bình, bạn sẽ không có hòa bình. Một cái trí sáng chế một lý do cho hòa bình đang ở trong xung đột, và một cái trí như thế sẽ tạo ra hỗn loạn và xung đột trong thế giới. Chỉ suy nghĩ ra, và bạn sẽ thấy. Làm thế nào một cái trí sáng chế những lý do cho hòa bình có thể là hòa bình? Bạn có thể có những lý lẽ biện hộ và phản bác rất khôn khéo, nhưng chính cấu trúc của cái trí không được đặt nền tảng trên bạo lực hay sao? Cái trí là kết quả của thời gian, của ngày hôm qua, và nó luôn luôn xung đột với hiện tại; nhưng con người là hòa bình ngay lúc này không có lý do cho nó. Với con người hòa bình, không có động cơ cho hòa bình. Quảng đại có một động cơ hay sao? Khi bạn quảng đại có một động cơ, đó là quảng đại à? Khi một người từ bỏ thế giới vì mục đích đạt được Thượng đế, vì mục đích đạt được điều gì đó to tát hơn, đó là sự từ bỏ hay sao? Nếu tôi từ bỏ cái này với mục đích tìm được cái kia, tôi có thực sự từ bỏ bất kỳ cái gì hay không? Nếu tôi được hòa bình vì những lý do khác nhau, tôi đã tìm được hòa bình à?

Vậy là, hòa bình không là một việc vượt khỏi cái trí và những sáng chế của cái trí hay sao? Hầu hết chúng ta, hầu hết những con người tôn giáo cùng những tổ chức của họ, đến hòa bình qua lý do, qua kỷ luật, qua tuân phục, bởi vì không có trực nhận của sự cần thiết, sự thật của là hòa bình. Hòa bình, trạng thái của hòa bình đó, không là trạng thái trì trệ; trái lại, nó là một trạng thái năng động nhất. Nhưng cái trí chỉ có thể biết được hoạt động thuộc sáng chế riêng của nó, mà là tư tưởng; và tư tưởng không bao giờ có thể là hòa bình; tư tưởng là đau khổ; tư tưởng là xung đột. Vì chúng ta chỉ biết phiền muộn và đau khổ, chúng ta cố gắng tìm ra những phương cách và phương tiện để vượt khỏi nó, và bất kỳ điều gì cái trí sáng chế chỉ gia tăng thêm nữa đau khổ riêng của nó, xung đột riêng của nó, đối kháng riêng của nó. Bạn sẽ nói rằng chẳng có bao nhiêu người sẽ hiểu rõ điều này, rằng chẳng có bao nhiêu người sẽ mãi mãi là hòa bình trong ý nghĩa đúng đắn của từ ngữ đó. Tại sao bạn nói như thế? Không phải bởi vì nó là một tẩu thoát thuận tiện cho bạn hay sao? Bạn nói rằng hòa bình không bao giờ có thể đạt được trong cách tôi đang trình bày; nó không thể xảy ra được. Vì vậy bạn phải có những lý do cho hòa bình; bạn phải có những tổ chức cho hòa bình; bạn phải có sự tuyên truyền khôn khéo cho hòa bình. Nhưng chắc chắn tất cả những phương pháp đó chỉ là sự trì hoãn của hòa bình.

Chỉ khi nào bạn tiếp xúc trực tiếp cùng vấn đề, khi bạn thấy rằng nếu không có hòa bình ngày hôm nay bạn không thể có hòa bình ngày mai, khi bạn không có lý do cho hòa bình nhưng thực sự thấy sự thật rằng nếu không có hòa bình sống không thể xảy ra được; sáng tạo không thể xảy ra được, rằng nếu không có hòa bình không thể có ý thức của hạnh phúc – chỉ khi bạn thấy sự thật của điều đó bạn sẽ có hòa bình. Vậy là bạn sẽ có hòa bình nếu không có bất kỳ tổ chức nào cho hòa bình. Muốn có điều đó bạn phải thật mong manh, bạn phải khẩn thiết cho hòa bình bằng tất cả tâm hồn của bạn, bạn phải tự tìm ra sự thật của nó cho chính bạn, không qua những tổ chức, không qua sự tuyên truyền, không qua những lý lẽ khôn ngoan để ủng hộ hòa bình và phản đối chiến tranh. Hòa bình không là sự phủ nhận của chiến tranh. Hòa bình là một trạng thái của đang là trong đó tất cả những xung đột và tất cả những vấn đề đã kết thúc; nó không là một lý thuyết, không là một lý tưởng sẽ đạt được sau mười hóa thân, mười năm, mười ngày. Chừng nào cái trí còn không hiểu rõ hoạt động riêng của nó, nó sẽ tạo ra đau khổ nhiều hơn; và sự hiểu rõ về cái trí là sự khởi đầu của hòa bình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2015(Xem: 24997)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
08/02/2015(Xem: 7931)
Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, không chỉ theo cảm nhận thông thường, có một sự bắt đầu và có sự chấm dứt. Như vậy là hợp lý; đấy là quy luật; đấy là tự nhiên. Cho nên bất cứ chúng ta gọi là Big Bang hay điều gì như vậy đi nữa, có một tiến trình tiến hóa hay một tiến trình của sự bắt đầu. Cho nên phải có một sự chấm dứt. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, tôi nghĩ sự chấm dứt hay tận thế sẽ không xảy ra trong vài triệu năm nữa. Bây giờ, sự ô nhiễm. Như quý vị biết tôi đến từ Tây Tạng. Khi chúng tôi ở Tây Tạng, chúng tôi không có ý tưởng về ô nhiễm. Mọi thứ rất trong sạch! Trong thực tế, lần đầu tiên khi tôi biết qua ô nhiễm và nghe mọi người nói về rằng tôi không thể uống nước, nó làm tôi ngạc nhiên. Cuối cùng kiến thức của chúng ta được mở rộng.
23/01/2015(Xem: 5046)
Các tôn giáo nên hợp tác với nhau hầu góp phần mang lại một nền hòa bình cho toàn thế giới. Nếu tìm hiểu cặn kẽ những lời ủy thác do các vị sáng lập tôn giáo đã lưu lại cho chúng ta ngày nay, thì tất chúng ta sẽ hiểu rằng những lời ấy đều đã được ghi sẵn trong kinh sách của mỗi tôn giáo, và nhất loạt nêu lên trọng trách của mỗi người chúng ta trong xã hội.
05/01/2015(Xem: 19141)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 16839)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
11/12/2014(Xem: 9194)
Ngày nay, nhân loại đã tiến bộ rất xa về mặt khoa học, kỹ thuật, đã làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày, từng giờ và thậm chí từng phút, từng giây, nên đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội v.v… đều được nâng cao một cách đáng kể.
22/11/2014(Xem: 23468)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
15/11/2014(Xem: 16828)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
24/10/2014(Xem: 11780)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
20/10/2014(Xem: 27803)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567