Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu

20/02/201103:54(Xem: 3102)
Giới thiệu

TẠI SAO BẠN ĐANG ĐƯỢC GIÁO DỤC?
WHY ARE YOU BEING EDUCATED?
J. KRISHNAMURTI
Lời dịch: Ông Không
– Tháng 2-2011 –

Giới thiệu

Q

uyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.

Sự gắn bó với những trường đại học của Krishnamurti có từ năm 1922 khi ông viếng thăm Berkeley University. Nơi đó đã tạo ra một ấn tượng sâu sắc cho ông đến độ ông bắt đầu mơ mộng về việc thành lập một học viện văn hoá tương tự ở Ấn độ. Năm 1925 Bà Annie Besant, chủ tịch của Tổ chức Thông thái Theosophical Society, quyết định xây dựng một trường Đại học Thế giới ở Ấn độ, có lẽ gần nơi sinh của Krishnamurti, Madanapalle ở Andhra Pradesh. Ông chia sẻ quan điểm của bà rõ ràng trong bài ‘Editorial Notes’ ông đã viết cho tạp chí The Herald of the Starvào tháng tư năm 1925: ‘Điều gì đã ảnh hưởng hầu hết những suy nghĩ và thời gian của tôi khi tôi đến Ấn độ là một kế hoạch cho việc thành lập một trường Đại học Quốc tế mới ở Madanapalle ở Nam Ấn độ. Một ý tưởng như thế lâu rồi đã là một trong những ước mơ của tôi và ước mơ đó bây giờ sắp được thực hiện.”

Mặc dù ước mơ đó của Krishnamurti đã không hình thành, niềm đam mê giáo dục của ông vẫn đầy sinh động suốt sống của ông, dẫn đến sự thành lập năm trường học ở Ấn độ và hai trường học ở nước ngoài.

Trong những năm 1922 Krishnamurti đã giảng thuyết trước những giáo viên và sinh viên tại Theosophical College ở Adyar, Madras, và Vijayawada ở Andhra Pradesh. Trong năm 1930 ông thực hiện một nói chuyện tại Boys College ở Tiruchi, Tamil Nadu. Giảng thuyết trước những học sinh của D. J. Sind College ở Karachi vào ngày 15 tháng 2 năm 1933, Krishnamurti bắt đầu bởi một nhận định tiêu biểu:

‘Tôi chưa bao giờ đậu một kỳ thi nào. Tôi đã dự ba kỳ thi, nhưng bạn biết không khi bạn đi đến phòng thi, mọi thứ đã trở nên đen kịt. Có thể bạn không cảm thấy điều đó, nhưng tôi đã cảm thấy, thế là tôi đã cảm thấy ba lần, và cả ba lần tôi đều thành công khi được đánh rớt!’

Tuy nhiên ông thực hiện sự sửa đổi thích hợp cho một lễ khai mạc bằng cách tìm kiếm sự tha thứ của ‘Ngài Hiệu trưởng, những Giáo sư và chính các bạn’.

Giảng thuyết quan trọng đầu tiên của Krishnamurti cho những sinh viên sẽ tìm được trong một loạt ba nói chuyện ông thực hiện vào năm 1954 tại Benares Hindu University. Cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 khi những trường đại học ở phương Tây đang phản đối, ông thực hiện những nói chuyện tại Puerto Rico University, Clement Colleges California, và New School for Social Research, New York. Những giảng thuyết này được tiếp tục bởi những nói chuyện tại Brandeis, Berkeley, Standford, và Santa Cruz. Những nói chuyện này có thể được tìm thấy trong hai quyển, You are the World Bạn là Thế giới, Talks with American Students Nói chuyện cùng Sinh viên Mỹ.

Trong cùng thời điểm, Krishnamurti cũng giảng thuyết cho những học sinh ở Ấn độ nữa. Sáu nói chuyện trong quyển sách này, sự quan tâm chính của ông là thức dậy những sinh viên – và cả những giáo viên nữa – hiểu rõ sự thật rằng sự theo đuổi hiểu biết không giải thoát con người khỏi sự dốt nát của chính anh ấy. Trong khi hiểu biết, đặc biệt hiểu biết thuộc công nghệ, là tuyệt đối cần thiết, nó cũng tạo ra ảo tưởng rằng chúng ta có dư thừa thông minh để gặp gỡ những thách thức của sống. Ảo tưởng này khiến chúng ta bỏ qua lãnh vực tinh tế và rộng lớn của tinh thần con người, lãnh vực của sự liên hệ con người. Tất cả điều này, Krishnamurti khẳng định là bản thể của sự dốt nát.

Tuy nhiên, thậm chí trong khi đang cố gắng đánh thức những học sinh khỏi sự tự mãn của họ, Krishnamurti cũng cam kết trước họ về khả năng của một sống trong đó có cả ý nghĩa lẫn vẻ đẹp, trách nhiệm lẫn tự do. ‘Nếu tôi là một sinh viên tôi nghĩ tôi sẽ hỏi rằng: làm thế nào sống một sống rất đơn giản, không xung đột, làm thế nào sống giàu có, phong phú, và trọn vẹn, không có bất kỳ mâu thuẫn, để cho sống không trở thành một chiến trường. Sau đó tôi cũng sẽ hỏi: Liệu có cái gì đó vượt khỏi tất cả điều này? Có cái gì đó mà con người trong quá khứ đã luôn luôn tìm kiếm.

Đối với Krishnamurti, giáo dục đúng đắn không thể được đặt nền tảng trên những bản thiết kế và những chương trình học vấn. Trái lại, đối với ông học hành đồng nghĩa với học hành về chính người ta; nó không chỉ là sự theo đuổi hiểu biết nhưng còn cả sự khám phá thế giới bên trong. Tầm nhìn này được trình bày rõ ràng trong những nói chuyện, và vì vậy có ý nghĩa không chỉ cho những người trẻ tuổi mà còn cho những bậc phụ huynh, những giáo viên, và tất cả những người có sự quan tâm trong những vấn đề sâu sắc hơn của sự tồn tại con người.

K. K.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2017(Xem: 8045)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 9109)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9730)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12782)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5297)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 24502)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13359)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 10114)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 31640)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15079)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567