Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4 Tan-tra thừa và tính dục

07/12/201015:57(Xem: 3267)
4 Tan-tra thừa và tính dục

4

Tan-tra thừa và tính dục
Philippe Cornu
Hoang phong chuyển ngữ

Từ lâu nay đã có không biếtbao nhiêu sự hiểu lầm và thành kiến đối với Tan-tra thừa. Trước hết là người Tâyphương quá hấp tấp khi xem Tan-tra thừa đơn thuần như là một thứ kỹ thuật áp dụngtrên đường tu tập. Thật ra thì Tan-tra thừa Phật giáo còn gọi là Kim cương thừaxuất phát trực tiếp từ Đại thừa, là một con đường toàn vẹn mang lại thể dạng củaPhật. Tan-tra thừa hoàn toàn không đơn giản như một thứ kỹ thuật giúp giải thoátkhỏi tính dục. Biểu tượng của tính dục nêu lên trong Tan-tra thừa mang mục đíchtrình bày sự kết hợp bất khả phân giữa các cựcđối nghịch(polarités - polarities)trong tâm thức, trong vũ trụ và trong thực tế. Do đó các thần linh nam tính trongTan-tra thừa tượng trưng cho các phương tiện thiện xảo (upaya) trên đường tu tập và các thần linh nữ tính mang tính cách đối nghịchtượng trưngcho trí tuệ (prajna) hay là sự hiểubiết Tánh không, giữ vai trò chứng nhận kết quả do phương pháp (upaya) mang lại. Trong lãnh vực tâm linhtính chất phân cực tính dục cho thấy phương pháp (nam tính) nếu không hướng vàomột sự mở rộng (nữ tính) sẽ trở nên vô cùng nguy hiểm. Cũng tương tự như thế, cáchiện tượng trong vũ trụ (phân cực nam tính) chỉ có thể triển khai được trong môitrường không gian mở rộng (phân cực nữ tính) làm nền tảng (matrice - matrix) tiếpnhận hiện tượng.

phatgiaovatinhduc-03-content

Cakrasamvara (Hộ thần Hung tợn) và Vajravarahi (Nữ thần tượngtrưng cho trí tuệ)
tranh Tây tạng (chi tiết) thế kỷ XVI

Tinh khiết hóa các hậu quả

Tâm thức mang bản chất giác ngộ tức là không gian mở rộng(thể dạng nữ tính) đón nhận và phối hợp với sự sáng tỏ (thể dạng nam tính). Cácbiểu tượng chủ yếu của Kim cương thừa gồm có vajra một cây gậy kim cương[kim cương chùy] tượng trưng cho nam tính và ghantamột cái chuông nhỏ tượng trưngcho nữ tính hay phân cực vũ trụ. Các biểu tượng của chư Phật được trình bày bằngsự kết hợp nam và nữ tính không hề hàm chứa tính cách truy hoan dù cho cố tình gánthêm cho chúng tính cách thiêng liêng !

Vậy đối với vấn đề tính dục xác thịt thì sao ? Tại Nhật bản,các học phái Chân ngôn tông (Shingon) và Thiên thai tông (Tendai) chính thống [Chân ngôn tông và Thiên thai tông là các tông phái xuất pháttừ Tan-tra thừa] hoàn toàn loại bỏ các kinh sách tan-tra mang các biểutượng có tính cách diễn đạt cụ thể. Trong các tông Chân ngôn và Thiên thai cácbiểu tượng tính dục được trình bày thật kín đáo, thần linh thuộc hai phái tínhđược xếp bên cạnh nhau và các biểu tượng đó được sử dụng như một kỹ thuật tinh khiếthóa các tác động của hậu quả và các cảm nhận ô nhiễm về hiện thực. Thế nhưng vàothế kỷ XII cũng có một chi phái Chân ngôn tông mang tính cách lệch lạc gọi làTachikawa-ryu. Chi phái này chủ trương sử dụng thể dạng phúc hạnh của sự phối hợptính dục trong mục đích mang lại sự giác ngộ. Thật ra Lão giáo chịu ảnh hưởng nặngnề hơn hết trước các dị giáo diễn đạt lệch lạc về Tan-tra thừa. Nhờ vào các ảnhhưởng lệch lạc đó Lão giáo thu hút được nhiều tín đồ và phát triển rất mạnh. Cácnhà sư Phật giáo thuộc nhiều tông phái khác nhau phản đối tính cách "dị giáo"đó trong Lão giáo khiến Lão giáo bị cấm đoán ở Nhật vào thế kỷ XIV và các kinhsách Lão giáo bị đốt sạch.

Tại Ấn độ và Tây tạng kỹ thuật tu tập Tan-tra mang tính cáchhoàn toàn nội tâm, do đó các biểu tượng tính dục thường được trình bày lộ liễuhơn. Tuy nhiên sự kết hợp với người phối ngẫu (mudra) chỉ có thể được xem là một phép tu tập giác ngộ khi nào ngườidu-già đã đạt được một cấp bậc thật cao, phải có căn bản vững chắc về sự hiểubiết Tánh không, phát huy được lòng từ bi, chủ động được sự quán tưởng và cácphép tụng niệm man-tra, cũng như các phương pháp luyện tập du-già về khí lực. Nếuxem cách sử dụng tính dục là một kỹ thuật loại bỏ sự bám víu vào thế tục thì hoàntoàn không hiểu gì cả về sự tu tập Tan-tra. Do đó cũng không nên ngạc nhiên khithấy tính dục được sử dụng như một phương tiện biến cải : Tan-tra thừa là conđường chủ trương cách tu tập dựa trên sự biến cải giúp người tu tập biến đổi cácthứ nọc độc tâm thần thành trí tuệ nhờ vào các phương pháp cực mạnh của du-già.Trong khi tính dục tầm thường của thế tục biểu hiện sự thèm-khát-bám-víu và lạcthú, thì Tan-tra biến thể dạng ấy trở thành thiêng liêng và xem đó là cơ hội giúpcảm nhận thể dạng phúc hạnh, xóa bỏ hoàn toàn thể dạng tâm thức thô thiển để thayvào đó bằng thể dạng tâm thức tinh khiết của ánh sáng trong suốt. Thông thường ánhsáng trong suốt chỉ thể hiện khi chết, thế nhưng khi chủ động được sự phối hợptính dục sẽ tạo ra một thể dạng tương tợ như thể dạng tâm thức khi rời bỏ thânxác. Nhờ vào du-già "cái chết ngắn ngủi" và "u tối" của khoáilạc sẽ nhường chỗ cho các tia sáng rạng đông của ánh sáng trong suốt, khi thựchiện được thể dạng đó người du-già và người phối ngẫu đạt được sự tỉnh thức phátsinh trong lúc chết. Đây là một trong nhiều thí dụ nêu lên xung năng dục tính(eros) đi đôi với xung năng của cái chết (thanatos)..., (Philippe Cornu).

Vài lời góp ý của người dịch

Phật giáo sử dụng phương pháp phân giải để tiếp cận vớihiện thực. Sự phân giải đó hướng vào hai chiều khác nhau, một chiều sử dụng sựphân cắt các hiện tượng đến cùng cực, đến chỗ không còn lại gì cả tức là tánhkhông của chúng. Chiều thứ hai hướng vào cách nhìn thật rộng lớn bao gồm tất cảmọi hiện tượng giúp quán thấy bản chất và các quy luật toàn cầu chi phối sự vậnhành của chúng, chẳng hạn như nguyên lý tương liên giữa các hiện tượng (lý duyênkhởi), nguyên lý vô thường, quy luật nguyên nhân hậu quả... Các bài viết trên đâyđưa ra một số kết quả rút tỉa từ các phương pháp phân giải và cho thấy Phật giáokhông tìm cách trực tiếp "xử lý" những tác động tai hại của tính dục,cũng không quy lỗi cho thân xác như là cơ sở làm phát sinh ra dâm dục. Trái lạiPhật giáo phân tích xa hơn để chứng minh cho thấy mọi thứ khổ đau và thác loạn làhậu quả phát sinh từ sự bám víu trong tâm thức.

Phật giáo Nguyên thủy tìm cách ngăn chận các tác động taihại của tính dục bằng các giới luật khắt khe và các liều thuốc hóa giải. Phậtgiáo Đại thừa cũng sử dụng giới luật để hạn chế tác động của tính dục nhưng đồngthời cũng tìm cách vượt lên trên tính dục để mang lại một chút phóng khoáng trongkỷ cương đạo đức của người bồ-tát xuất gia hay tại gia giúp họ hành động hữu hiệuhơn. Phật giáo Tan-tra dựa vào một cách tiếp cận khác hẳn, đó là cách trực tiếplợi dụng xung năng của tính dục hướng thẳng vào sự giác ngộ.

Ngày nay nhờ vàokhoa học, triết học, xã hội học...chúng ta được thừa hưởng một sự hiểu biếtphong phú hơn, vậy những hiểu biết đó có góp phần gì thêm cho Phật giáo trong mụcđích hướng dẫn chúng ta tìm hiểu sâu xa hơn về tính dục và những tác động của nóhầu giới hạn những hậu quả tai hại và thác loạn do nó gây ra trong xã hội vàcho mỗi con người chúng ta hay không ? Để trả lời cho câu hỏi trên chúng ta thửphân tích nguyên nhân của xung động tính dục dưới một khía cạnh khác, xa hơn cấpbậc thân xác và tâm thức bằng cách dựa vào khái niệm về bản năngxem sao.

Thật vậy chúng ta thường xuyên bị thúc đẩy bởi bản năng đủloại. Trong số đó có ba thứ bản năng gây ra tác động mạnh nhất đó là muốn ăn, muốn dâm và sợ chết. Muốn ăn làbiểu hiện của bản năng sinh tồnlàmphát sinh ra sự bảo vệ miếng ăn, ngân hàng, tiền bạc, của cải, tranh dành, biểnlận, tham lam, keo kiệt, súng đạn, chiến tranh, cướp giật, giàu sang, nghèo đói,dư thừa... Muốn dâm là bản năng dục tínhhay truyền giống, đó là bản năng làmphát sinh sự ghen tuông, si mê, thất tình, "hạnh phúc", buồn khổ, mặccảm, đâm chém, tự tử, tù tội..., bản năng đó biểu hiện dưới muôn ngàn thể dạng nhưphấn son, quần áo, nước hoa, thi phú ướt át, nhạc trữ tình, phim ảnh dâm ô, tiểuthuyết tình cảm... Sợ chết là bản năng tựvệhay bảo tồn sự sốngcủa chínhmình, làm phát sinh ra triết học, tôn giáo đủ loại, y khoa, thuốc men, phù phép,luyện đan bất tử, sáng chế ra mọi cảnh giới cực lạc... với mục đích được sống mãidưới bất cứ hình thức nào.

Tóm lại thế giới của hiện tượng vô cùng phức tạp, thế nhưngnếu suy ngược về nguyên nhân làm phát sinh ra các hiện tượng thì cõi ta-bà đầybiến động này cũng không phải là phức tạp lắm. Bản năng muốn ăn, muốn dâmsợ chếttác động, khống chế và điều khiểntất cả mọi sinh vật từ con người, muôn thú cho đến côn trùng và các sinh vật nhỏbé, một cách vắn tắt là tất cả chúng sinh. Tác động của bản năng tạo ra sự bámvíu và trói buộc mang lại khổ đau. Bản năng đó do đâu mà ra ? Do vô minh căn bảncòn gọi là vô minh nguyên thủybuộc chặt chúng sinhvào chu kỳ hiện hữu. Sinh ra làm người, chúng ta mang bản năng của con người,sinh ra dưới thể dạng một con thú, chúng ta mang bản năng của một con thú. Nghiệpcá nhân tác động thêm vào đó tạo ra sự đa dạng của tất cả chúng sinh.

Khi ý thức được bản năng đang điều khiển và khống chế chúngta, đương nhiên chúng ta phải tìm cách giới hạn tác động của chúng để tìm lấy tựdo và giải thoát cho mình. Một cách đơn giản, nếu đủ ăn thì không cần phải thamlam, cướp giật, gây ra chiến tranh để bảo vệ của cải hay làm giàu thêm, nếu muốntruyền giống thì hãy nhìn vào gần bảy tỉ người đang đau khổ trên hành tinh này,nếu sợ chết thì thật là hoài công vì không thể tránh khỏi.

Riêng đối với bản năng tính dục thì giáo lý Phật giáo đãdự trù trước các giới luật ngăn chận và các phương thuốc hóa giải. Giới luậttrong Phật giáo Nguyên thủy nêu lên trường hợp cố ý hay vô tình phóng thải tinhdịch chẳng hạn, đấy chỉ là tình trạng lạc vào chi tiết hay ít ra cũng chỉ là mộthình thức câu nệ và bám víu. Phật giáo Đại thừa tỏ ra phóng khoáng hơn đối vớingười bồ-tát, thế nhưng muốn được hưởng tính cách phóng khoáng trong giới luậtthì phải là một người bồ-tát trước đã. Sự bành trướng của tông phái Tan-tra thậtgiới hạn so với các tông phái khác, số người tu tập cao thâm có thể lợi dụng đượcsức mạnh của tính dục trên đường giác ngộ quả thật vô cùng hiếm hoi. Người tu tậpcó thể nhìn vào tấm gương của Đức Đạt-lai Lạt-ma, Ngài là một người tu tập theoPhật giáo Tan-tra thế nhưng Ngài là một nhà sư hoàn toàn đoạn dục.

Bures-Sur-Yvette, 02.12.10

Hoang Phongchuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/03/2023(Xem: 6421)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
03/02/2023(Xem: 5659)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6338)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5357)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13727)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18335)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13886)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12283)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6474)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8672)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567