Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tám điều giác ngộ - Ứng dụng kinh Bát Đại Nhân Giác trong cuộc sống

12/12/201205:22(Xem: 9078)
Tám điều giác ngộ - Ứng dụng kinh Bát Đại Nhân Giác trong cuộc sống

TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ

ỨNG DỤNG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC TRONG CUỘC SỐNG
Thích Nhật Từ
Nhà xuất bản Hồng Đức


tamdieugiacngo-thichnhattu-bia

MỤC LỤC

Thay lời tựa
Phần 1: Cuộc đời vô thường
Thế gian vô thường
Đất nước mong manh
Đất, nước, gió, lửa là không thực thể
Con người là vô ngã
Sinh diệt biến đổi
Tâm là nguồn ác
Thân dễ tạo tội
Phần 2: Tham nhiều khổ nhiều
Tham nhiều khổ nhiều
Dục từ lòng tham
Dục từ những ham muốn ở dạng trung tính
Dục trong sự hưởng thụ các khoái lạc giác quan
Dục và tái sanh
Chuyển hóa tính dục
Thân tự tại
Tâm tự tại
Hướng đến vô vi
Phần 3: Từ bỏ thói đời
Nên bỏ thói đời
Tâm tham cầu không đáy
Tham nhiều tội nhiều
Bồ-tát không còn tham
Hài lòng và biết đủ
Giữ tâm với đạo
Trí tuệ là sự nghiệp
Phần 4: Nỗ lực chuyển hóa
Nỗ lực là nhu cầu
Lười biếng đọa lạc
Tinh tấn hướng thiện
Vẫy chào phiền não
Dẹp sạch các ma
Vượt ngục ngũ uẩn

Phần 5: Học rộng hiểunhiều
Văn tư tu
Tái sinh do vô minh
Chánh niệm của Bồ-tát
Học rộng hiểu nhiều
Trí tuệ lớn mạnh
Diễn thuyết vô ngại
Hóa độ chúng sanh
Đạt niềm vui lớn
Phần 6: Dâng tặng niềm vui
Nghèo khổ dễ oán
Gặp nhiều trở ngại
Bồ-tát giúp đời
Không phân biệt đối xử
Không ghìm lỗi cũ
Không ghét kẻ xấu
Phần 7: Sống đời thanh cao
Năm dục nguy hại
Trong đời, không nhiễm đời
Ba y một bát
Chí nguyện thong dong
Thanh tịnh giữ đạo
Giới đức sáng ngời
Từ bi hóa độ
Phần 8: Phát tâm đại thừa
Khổ đau trong sinh tử
Nuôi tâm Đại thừa
Cứu người và giúp đời
Chịu khổ thay người
Ban tặng hạnh phúc
Phụ lục: Kinh Bát Đại Nhân Giác (Hán Việt)
Phụ lục: Kinh Tám Điều Giác Ngộ (bản dịch thơ)

THAY LỜI TỰA

Kinh Bát Đại Nhân Giác được hiểu nôm na là “Tám điều giác ngộ của các bậc Bồ tát” hay “Tám điều giác ngộ của các bậc thượng nhân”. Khi phân tích ứng dụng bài kinh này, chúng tôi sẽ không chú trọng đến lịch sử và nhân bản học của nó trong lịch sử Tam Tạng, mà chỉ nhấn mạnh đến góc độ ứng dụng từ việc khai thác nội dung súc tích của bản kinh. Nếu áp dụng kinh vào cuộc sống thì giá trị trải nghiệm củanó sẽ cao, do đó ta khỏi bận tâm nhiều đến việc so sánh đối chiếu giữa kinh này với những kinh khác.

Gọi “Tám điều giác ngộ”, nhưng thựcra mỗi điều lại chứa nhiều minh triết khác, do đó học một điều trong tám điều cũng có thể giúp chúng ta trở thành bậc giác ngộ nếu như sự trải nghiệm của chúng ta trọn vẹn, thấu đáo, có phương pháp và đến nơi đến chốn.

Trong kho tạng kinh điển bằng chữ Hán, kinh Bát Đại Nhân Giác thuộc bài 779 của Đại Chánh Tăng Tu Đại Tạng kinh, được thái tử An Thế Cao dịch vào năm 148 tây lịch. An Thế Cao là một vị cao tăng, sau khi giác ngộ nền minh triết của Phật giáo, ông từ bỏ ngôi vua, trở thành một nhà sư và là thái tử của nước An Tức, một phần thuộc về Ba Tư,một phần thuộc về lãnh thổ A Phú Hãn, tức Afghanistan ngày nay.

Vàothời điểm đó, đạo Phật phát triển rất thịnh hành ở vùng Trung Đông. Những công trình vĩ đại như hai tượng Phật ở Afghanistan bị phá hủy là bằng chứng cho thấy sự lớn mạnh của đạo Phật đại thừa. Cũng vào thời điểm đó, phần lớn lãnh thổ Trung Đông thuộc về Phật giáo. Khi dấu giày xâm lược của Hồi giáo lan truyền rộng rãi ở Trung Đông, Trung Á và toàn Châu Á thì các mảnh đất đại thừa dần dà nhường bước cho Hồi giáo ngự trị, vì chính sách cai trị của Hồi giáo lúc bấy giờ rất khắc nghiệt. Ai theo thì được tạo điều kiện thuận lợi về phương diện thăng tiến xã hội, còn ai không theo thì bị chém đầu, giết chết, thủ tiêu, ám sát và trừng phạt nặng nề, điều đó khiến các nhà tri thức Phật giáo phải tìm cách ẩn danh hoặc vượt biên sang nước khác, sau đó hòa nhập trở thành người bỏ đạo, bằng không sẽ không có cơ hội tồn tại.
Kinh Bát Đại Nhân Giác mặc dầu được đề cập trong văn học Đại thừa là kinh dành cho các bậc đại nhân, tức các vị Bồ tát, trên thực tế nội dung cuốn kinh một mặt khái quát một thế giới quan duyên khởi và vô ngã, mặt khác giới thiệu một nhân sinh quan trên nền tảng đạo đức và chuyển hóa. Nhận diện cuộc đời là vô thường, sự sống con người là vô ngã, mọi thứ biến dịch, việc từ bỏthói đời và các tâm lý tiêu cực được xem là nền tảng an vui.

Nỗlực chuyển hóa các phiền não nhờ vào sự học rộng hiểu nhiều Phật pháp, hành giả có khả năng dâng tặng niềm vui cho đời. Không tham đắm ngũ dục,thấy rõ các bất hạnh của nghèo khó, các hành giả thực tập hạnh chia sẻ không phân biệt thân sơ. Nuôi lớn tâm từ bi, phát triển trí tuệ, thực tập thiền định, chuyển hóa thân tâm, phát bồ đề tâm, hướng về đời thườngnhằm mang lại hạnh phúc cho số đông.

Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân, bây giờvà tại đây. Giá trị đó thiết thực hiện tại và siêu việt thời gian.

TT. Thích Nhật Từ
Tổng biên tập
Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay


XEM NỘI DUNG:TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ ỨNG DỤNG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC TRONG CUỘC SỐNG- Thích Nhật Từ PDF

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2017(Xem: 8078)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 9154)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9763)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12828)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5318)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 24620)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13412)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 10126)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 31772)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15126)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567