Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giảng Phật pháp gì cho người Thượng?

23/10/201205:08(Xem: 6843)
Giảng Phật pháp gì cho người Thượng?

nguoithieusovietnam_1GIẢNG PHẬT PHÁP GÌ CHO NGƯỜI THƯỢNG?

Nguyên Hiệp

Sau khi Trưởng lão Mahinda, con trai của vua A Dục, truyền bá Phật pháp đến Srilanka và thực hiện một số việc liên quan đến việc truyền bá Phật pháp, vị vua trị vì đảo quốc này đã hỏi Trưởng lão rằng, có phải Tăng đoàn đã được thiết lập vững chắc ở đảo quốc này rồi không.

Trưởng lão Mahinda trả lời, Phật pháp chỉ mới được gieo trồng, còn để bám rễ vững chắc ở mảnh đất này thì cần đến một người ở chính Srilanka, có cha mẹ là người Sinhale, học tập Luật (Vinaya) ở Srilanka và giảng giải nó ở Srilanka. Tức muốn nói rằng, để Phật pháp hưng thịnh được ở Srilanka, thì cần đến chính người Srilanka xuất gia và truyền bá Phật pháp.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một trong các bản kinh được chuyển dịch sớm nhất sang Hán ngữ, và cũng được xem là bản kinh mở đầu cho việc truyền bá Phật pháp sang Trung Hoa. Kinh Tứ Thập Nhị Chương ngắn gọn, nhưng đã nói lên được những vấn đề cốt tủy của Phật giáo, và được xem là dễ dàng thích ứng với văn hóa Trung Hoa.

Những phái đoàn truyền bá Phật pháp sang nước khác dưới thời vua A Dục được cho là thành công, điều này nhờ vào những người truyền bá Phật pháp đã được huấn luyện và có sự chuẩn bị kỹ về “chuyên môn” cũng như được sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhà vua. Những người mang Phật pháp đến Trung Á và Trung Hoa sau đó, cũng được trang bị kỹ, không chỉ thành thạo về Phật pháp mà cũng giỏi về ngôn ngữ, địa lý, chiêm tinh, số học, y khoa và thậm chí cả pháp thuật…

Qua những điều được đề cập này, chúng ta thầy rằng người xưa khi truyền bá Phật pháp đến một vùng đất mới, trước tiên họ tính đến một “cẩm nang” Phật pháp phù hợp với “dân trí” của vùng đất đó, và thứ đến để Phật pháp phát triển bền vững được ở vùng đất mới, phải cần đến chính người dân ở vùng đất đó đảm trách công việc này.

Chúng ta nói một vài chuyện xa xưa để suy nghĩ về việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng ở Việt Nam hiện nay. Việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng hiện nay, cũng không thể không noi theo những gì người xưa đã làm: cần một quyển sách Phật pháp dành riêng cho người Thượng; và huấn luyện để người Thượng tiếp nối vai trò hoằng pháp, hoặc chí ít là có một người ở trong cộng đồng bản làng nắm vai trò giữ đạo cho người trong bản sau khi họ đã quy y.

Những năm gần đây, chúng ta vui mừng vì thỉnh thoảng nghe nơi này nơi kia có những buổi lễ quy y tập thể cho đồng bào người Thượng, có những ngôi chùa đã tổ chức khóa tu cho người Thượng và cũng có những quý thầy đã vào các bản làng để làm từ thiện. Nhưng có một điều chúng ta dễ nhận thấy là Phật giáo đã thiếu những bước chuẩn bị căn bản khi truyền bá Phật pháp cho cộng đồng này. Việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng trong những năm qua, nhìn vào thấy rõ tính “phong trào”, bên cạnh còn cho thấy nó phát xuất do sự tác động từ phía bên ngoài vì những lý do nào đó, hơn là phát xuất từ chính bên trong Phật giáo.

Bởi vì không có sự chuẩn bị kỹ, làm theo cảm hứng và thụ động, cho nên dù đôi khi ta nghe có ban này ngành nọ được thành lập để truyền bá Phật pháp cho cộng đồng người Thượng, thì những hoạt động mà chúng ta thấy được chỉ mang tính nhất thời, đối phó, và rồi chúng ta không hề biết cộng đồng người Thượng sau khi quy y đã sinh hoạt Phật pháp như thế nào, và việc quy y có đem lại những lợi ích gì cho họ trong đời sống tâm linh cũng như trong đời sống xã hội. Và chúng ta cũng không biết có bao nhiêu người Thượng tiếp tục là Phật tử sau khi quy y, và ai là người tiếp tục “chăm lo” đời sống tâm linh cho cộng đồng này.

Theo thiển ý của tôi, việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng trong những năm gần đây, trước hết, đã thiếu đi điều căn bản quan trọng nhất, đó là việc tìm hiểu “căn cơ” của cộng đồng này để soạn thảo một cuốn sách Phật pháp thích hợp cho họ. Chúng ta nói về việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng, vậy chúng ta đã giảng những Phật pháp gì cho họ? Liệu người Thượng có hiểu được các giáo pháp như Vô thường, Khổ, Vô ngã, Tánh không, Niết-bàn, Phật tính…? Căn bản hơn, họ có thể lãnh hội được những điều như tam quy, ngũ giới, thập thiện, nhân quả…?

Đối với cộng đồng người Thượng, cho dù họ có một vốn liếng khá về tiếng Việt, hoặc người truyền bá Phật pháp có thể nói được tiếng của họ, thì việc giảng giải Phật pháp dong dài là một việc làm vô bổ. Bởi vì, đối với cộng đồng người Thượng hiện nay, “nhận thức” của họ về tôn giáo còn rất giản đơn. Và nhiều vấn đề “triết học” có thể quen thuộc với người Kinh, nhưng đối với người Thượng lại không dễ dàng để tiếp nhận. Và có những điều nếu chúng ta nói cho họ nghe, chỉ có mất thời gian mà chắc chắc họ sẽ không hiểu được gì.

Tôi xin kể lại một câu chuyện thế này. Mẹ của tôi tu tập Bát quan trai tại một ngôi chùa ở thị trấn huyện. Và tôi nghe bà kể lại rằng ở đạo tràng này có khoảng 30 người là dân tộc thiểu số, và hầu hết họ là người trẻ. Cơ duyên để họ tham dự đạo tràng này là do một cô Phật tử người Kinh hướng dẫn. Cô Phật tử này có chồng là người Thượng. Sau khi lấy chồng và “xuất giá tòng phu”, cô đã vào trong bản (của chồng) sống, và chính cô là người đã “
hóa độ” chồng và khuyến hoá những người Thượng trẻ tuổi kia trở thành Phật tử và mỗi nửa tháng ra ngôi chùa ở thị trấn tham dự khoá tu Bát quan trai một lần.

Tôi không rõ cô Phật tử đã nói những Phật pháp gì cho những người Thượng này. Nhưng tôi nghe mẹ tôi kể rằng, khi tham dự khóa tu, nhưng người Thượng này rất thành tâm, nhưng có điều mỗi khi đạo tràng tụng kinh thì họ chỉ ngồi chắp tay… im lặng vì không tụng đọc được, và khi nghe thầy thuyết giảng họ cũng không hiểu gì cả. Vậy thì tại sao họ theo Phật giáo? Họ theo vì điều gì? Và việc theo như vậy có được lâu dài không?

Lại một chuyện khác liên quan đến bản thân tôi. Năm rồi tôi về quê làm lại giấy chứng minh nhân dân. Tại nơi làm giấy chứng minh nhân dân, trong khi chờ đến lượt mình, tôi đã điền hộ giấy tờ cho những anh chị người Thượng cũng đến làm giấy chứng minh nhân dân, bởi vì họ không biết chữ, mặc dù họ nói được tiếng Việt.

Tôi kể một vài chuyện lan man trước khi nói đến việc thuyết giảng những Phật pháp gì cho người Thượng. Theo tôi, như vừa mới nói ở trên, để truyền bá Phật pháp cho người Thượng, trước hết cần phải biên soạn một quyển sách Phật pháp ngắn gọn. Và quyển sách Phật pháp này trước hết là dành cho người truyền bá, và sau đó là cho đối tượng được truyền bá. Cuốn sách này được viết dưới dạng sám kệ, rõ ràng, dễ đọc và dễ thuộc. Cuốn sách sẽ là những gì người truyền đạo sẽ nói với người Thượng, nhưng cũng là một dạng sám nguyện dành cho người Thượng ngay ở tại buôn làng của họ. Nội dung của cuốn sách này có thể bao gồm hai điểm chính sau:

- Xây dựng hình ảnh đức Phật.

Những Phật tử “hiểu đạo” thường hiểu rằng đức Phật là một bậc Đạo sư, một người thầy dẫn đạo chứ Ngài không phải thần linh có khả năng ban phước hay giáng họa cho ai. Những đệ tử của Ngài, nếu muốn đạt được giác ngộ giải thoát thì nên tu học theo giáo pháp của Ngài và tự mình thắp đuốc lên mà đi…

Đối với cộng đồng dân tộc thiểu số, một bậc giáo chủ như vậy sẽ không làm họ thỏa mãn. Khi chúng ta tặng cho họ một bức ảnh/ tượng Phật, chúng ta sẽ nói gì với họ về việc treo hoặc thờ bức ảnh/ tượng ấy? Nói dong dài về tiểu sử của Ngài từ đản sanh đến niết-bàn, rồi sau đó kết luận rằng Ngài là bậc Đạo sư chỉ đường và các vị nên tu theo lời dạy của Ngài nếu các vị muốn giải thoát, chứ Ngài không có khả năng giáng họa hay ban phước cho ai? Hay là chúng ta nói với họ rằng, các vị hãy thờ đức Phật này. Ngài sẽ giúp cho các vị an ổn, nếu các vị chịu khó làm ăn và không làm điều xấu ác?

Theo tôi, nói ngắn gọn, với đồng bào người Thượng, đức Phật phải là một đấng thiêng liêng, không phải như thần linh thì cũng phải gần với ông Bụt trong dân gian Việt Nam. Ngài sẽ không giáng họa và trừng phạt ai, nhưng Ngài sẽ giúp đỡ người tốt. Theo và thờ Ngài trong nhà thì những điều tốt lành sẽ đến.

Tóm lại, hình ảnh đức Phật trong cuốn sách này vừa là một đấng bi trí vẹn toàn, nhưng cũng phải là người có khả năng cứu độ chúng sanh. Và đức Phật phải vượt qua Giàng (trời) của họ.

Tôi cũng xin mở ngoặc để nói thêm rằng, đọc những dòng này chắc có người sẽ cho tôi muốn xây dựng một hình ảnh đức Phật “thần quyền” cho cộng đồng người Thượng. Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng, Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam đầu tiên cũng dưới dạng một tôn giáo “thần quyền”. Và cũng thử làm một cuộc “điều tra xã hội” xem, có bao nhiêu Phật tử đến chùa mà không cầu Phật “gia hộ”. Thực ra, hình ảnh một đức Phật siêu nhiên đã hiện diện trong kinh sách Phật giáo, không chỉ trong kinh điển Đại thừa mà cũng ở trong Phật giáo Theravada.

- Phật Pháp căn bản

Phật pháp căn bản ở đây không phải là những giáo pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Ngũ uẩn.v.v.. Bởi vì những giáo pháp mà ta xem là căn bản này, người Thượng sẽ không hiểu được. Những giáo pháp căn bản mà tôi muốn nói ở đây là những nguyên tắc sống và đạo đức cụ thể mà chúng ta rút ra từ kinh sách.

Thứ nhất chúng ta cần phải nói về ba quy y và năm giới. Những giới như không uống rượu và không trộm cắp là cần thiết cho người Thượng hiện nay. Người Thượng trước đây họ rất thật thà, nay do sống gần người Kinh, cũng sinh tật trộm cắp. Còn uống rượu dẫn đến gây tai nạn xe máy do người Thượng gây ra, cũng rất phổ biến hiện nay. Về giới không sát sinh, cần nên nhấn mạnh vào việc không được giết người. Nói không sát sanh chung chung thì người Thượng sẽ không theo được. Ở vùng tôi đã có hiện tượng người Thượng giết người cướp của, điều mà trước đây không bao giờ xảy ra.

Tiếp theo chúng ta sẽ bổ sung thêm những nguyên tắc sống khác mà chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều kinh sách, chẳng hạn như: phải siêng năng làm việc; phải thương yêu giúp đỡ vợ con (cần nhấn mạnh điều này); phải nuôi nấng cha mẹ già, không bài bạc…

Cũng cần nói về giáo lý nhân quả, nghiệp báo cho họ. Nói ngắn gọn rằng nếu làm điều tốt, cần cù siêng năng thì họ sẽ gặp điều tốt, sẽ được chư Phật gia hộ. Nếu biếng nhác và làm điều ác thì họ sẽ gặp quả xấu. Và như tôi đã nói, những nguyên tắc này nên được viết dưới dạng sám nguyện, dù là thơ hay văn xuôi, để sau một thời gian nghe hoặc đọc theo, họ có thể thuộc lòng.


Về đối tượng mà người truyền đạo trước hết cần nhắm đến là các vị trưởng bản, và những người trẻ có thể đọc được chữ quốc ngữ, hoặc những người nghe sành tiếng Việt. Việc truyền đạo đến một cộng đồng văn
hóa mới, nếu người truyền bá biết được chữ và tiếng nói của họ là điều rất ưu thế. Nhưng trong điều kiện không có người thành thạo ngôn ngữ của họ để đảm trách công việc này, thì việc tranh thủ những người biết chữ quốc ngữ và sành tiếng Việt là điều cần ưu tiên. Và tôi cũng xin nói thêm, có một số cộng đồng dân tộc thiểu số có ngôn ngữ riêng, nhưng họ không có chữ viết. Ví dụ như cộng đồng Vân Kiều ở xứ của tôi.

Tôi không rõ ở các nơi khác như thế nào, riêng những gì tôi biết được ở xứ tôi, những người Tin Lành khi truyền đạo, trước hết họ đều nhằm vào các vị trưởng bản và những người “sáng giá” ở trong cộng đồng. Việc “
hóa độ” được người đứng đầu và những người có ảnh hưởng ở trong bản làng, sẽ tạo điều kiện tốt cho việc giáo hóa những người khác. Và những buổi lễ quy y cho đồng bào người Thượng, sẽ là tốt hơn nếu được tổ chức tại một gia đình của buôn làng, và gia đình này nên trở thành điểm sinh hoạt Phật pháp về sau của bản. Điều này cũng giống như các làng kinh tế mới trước đây (ở vùng tôi), thường “mượn” nhà của một Phật tử nào đó làm địa điểm sinh hoạt Phật pháp khi họ chưa xây được chùa hay niệm Phật đường. Việc vận động cả một cộng đồng người Thượng đông đảo kéo về thị xã hay thành phố để quy y tập thể, điều có thể tạo được “tiếng vang”, và có thể tốt ở một góc độ nào đó. Nhưng cũng sẽ trở thành bi hài là sau khi quy y ở một hội trường to đùng nào đó ở thành phố, các tân Phật tử nhận tiền, gạo, xe đạp… rồi trở về buôn làng và trở thành tín đồ của tôn giáo khác.

Đối với cộng đồng dân tộc thiểu số, khi đem đến cho họ một niềm tin tôn giáo mới, cũng cần phải nghĩ đến việc thay đổi một số điều kiện sống nào đó của họ. Điều kiện sống của người Thượng hiện nay nói chung là rất tệ và thua kém rất nhiều so với người Kinh. Nhưng rõ ràng là không dễ để thay đổi triệt để những điều kiện sống tồi tệ của một bản làng người Thượng. Tuy nhiên, nếu việc hoằng pháp có sự hỗ trợ của nhiều người và có những chương trình hoạt động hiệu quả, có thể cải đổi được một số vấn đề nào đó.

Ví dụ, nếu việc hoằng pháp được kết hợp với việc làm từ thiện, và một vài “công tác xã hội” khác chẳng hạn như “tư vấn” về việc vệ sinh nguồn nước, giữ sạch đẹp buôn làng, chăm sóc sức khỏe, hướng dẫn các loại cây trồng và cách trồng trọt… và hơn hết là truyền bá những nguyên tắc đạo đức Phật giáo, thì ngoài việc chúng ta đem lại cho họ một đời sống tâm linh mới, cũng đang phát triển một phần nào đó “đời sống xã hội” của họ. Việc làm từ thiện đối với người Thượng, cũng như đối với người Kinh, hẳn không nên nhắm mắt đem tiền của ban phát để họ thay đổi chế độ ăn uống trong một vài ngày, điều mà đôi khi ta tưởng là đang “ban vui cứu khổ” hay xóa bớt bất công, nhưng lại đang tạo nên sự bất công mới.

Ở trước chỉ là một vài suy nghĩ cá nhân, và những ý kiến này không phải là những đề xuất. Mà đề xuất cho ai? (và nghĩ mình cũng chẳng đủ khả năng để đề xuất cho ai). Những dòng này, nếu có ai đọc được thì chỉ nên coi như những “chia sẻ”, và nếu thấy nó có chút nào đó hợp lý thì cùng nhau nghiên cứu thêm để tìm ra một mô hình truyền bá Phật pháp bền vững hơn cho cộng đồng người Thượng.

Việc truyền bá Phật pháp cho cộng động người Thượng bằng cách thâm nhập sâu vào trong các bản làng hẳn sẽ gặp trở ngại, bởi các bản làng người Thượng thường được coi là những địa điểm “nhạy cảm”. Việc các nhóm tự vào các bản làng hoằng pháp cộng với các hoạt động từ thiện và xã hội là không dễ được chấp nhận, nhất là khi các nhóm làm việc độc lập và không thông qua một ban ngành hay tổ chức chính thức nào.

Nhưng với tình hình hiện nay, thì các chùa gần các buôn làng hoặc các Phật tử nên tự tập hợp lại thành nhóm và tự làm lấy công việc này, dù có thể là khó khăn. Chờ đợi các ban ngành hay tổ chức chính thức của Phật giáo thực hiện công việc này một cách bài bản, thì có khi dân chúng của các bản làng đã trở thành tín đồ của các tôn giáo khác hết rồi. Sự thực, ở tỉnh tôi (và rất nhiều tỉnh khác), đã không có bất kỳ hoạt động hoằng pháp nào của các ban ngành giáo hội địa phương cho các buôn làng trong địa bàn, ngoại trừ thỉnh thoảng có một vài chùa hay các nhóm Phật tử ở đâu đó đến “bố thí” và rồi rời ngay sau đó. Và thường các đoàn từ thiện cũng không vào tận trong các bản làng để cứu tế, mà họ chỉ tập trung tại uỷ ban xã hay một ngôi chùa nào đó và mời đồng bào người Thượng đến nhận tài vật.

Mọi việc đã quá muộn. Nhưng nếu cố gắng thì có thể vớt vát được phần nào!

Nguyên Hiệp
(Pháp Luân)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 7441)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 5711)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 30686)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17644)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
24/12/2021(Xem: 3672)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề xuyên suốt quá trình phát triển của nhân loại. Sự tác động lẫn nhau giữa thiện và ác, chính và tà định hình số phận của các cá nhân và xã hội theo các chu kỳ, có thể biết được và không nhìn thấy. Các vị triết gia và nhà tư tưởng đã cân nhắc không chỉ điều gì tạo nên những chất đạo đức thanh cao mà còn cả những trợ duyên tác động nó. Đạo đức nhân văn là ngành học nghiên cứu các nguyên tắc đạo đức chi phối hành vi hoặc cách cư xử của mỗi cá nhân, và nó cũng là mảng kiến thức liên quan đến các nguyên tắc đạo đức.
05/12/2021(Xem: 4014)
Khi đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu, chúng ta thiết lập các kết nối sâu sắc, và giúp những người xung quanh tránh bị kiệt sức.
17/11/2021(Xem: 19410)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 15737)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10108)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11180)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567