Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyền thống và cách mạng

15/07/201112:20(Xem: 6161)
Truyền thống và cách mạng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

truyenthongvacachmang-cover1

NỘI DUNG

Lời tựa bởi Pupul Jayakar và Sunanda Patwardhan


New Delhi, 1970
Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ
Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến
Đối thoại 3 – Ngăn chặn Sự Xấu xa
Đối thoại 4 – Thức dậy của Năng lượng
Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng
Đối thoại 6 – Năng lượng và Sự Đột biến
Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là
Đối thoại 8 – Chuyển động Rút vào
Đối thoại 9 – Thời gian và Sự Thoái hóa
Đối thoại 10 – Chết và Sống
Đối thoại 11 – Vẻ đẹp và Sự Nhận biết
Madras, 1971
Đối thoại 12 – Nghịch lý của Nhân duyên
Đối thoại 13 – Truyền thống và Hiểu biết
Đối thoại 14 – Xung đột và Ý thức
Đối thoại 15 – Bản chất của Thâm nhập
Đối thoại 16 – Trật tự và Sự Hình thành Ý tưởng
Đối thoại 17 – Sự vật, Hiểu biết và Nhận biết
Đối thoại 18 – Năng lượng và Phân chia
Đối thoại 19 – Tự do và Cánh đồng
Rishi Valley, 1971
Đối thoại 20 – Hỗn mang của Truyền thống
Đối thoại 21 – Đạo sư, Truyền thống và Tự do
Đối thoại 22 – Tự do và Ngục tù
Đối thoại 23 – Ổn định và Hiểu biết
Bombay, 1971
Đối thoại 24 – Những tế bào não và Sự Đột biến
Đối thoại 25 – Thượng đế
Đối thoại 26 – Năng lượng, Hỗn mang và Sự Sống
Đối thoại 27 – Thông minh và Dụng cụ
Đối thoại 28 – Hiệp thông đúng đắn
Đối thoại 29 – Sinh tồn thuộc sinh học và Thông minh
Đối thoại 30 – Cái trí và Quả tim

Lời tựa

của Pupul Jayakar và Sunanda Patwardhan

New Delhi, ngày 11 tháng 5 năm 1972

Từ năm 1947 trong khi ở Ấn độ, J. Krishnamurti đã đều đặn gặp gỡ và tổ chức những nói chuyện cùng một nhóm người từ nhiều nền quá khứ và kiến thức khác nhau – những người trí thức, những người chính trị, những nghệ sĩ, những khất sĩ. Suốt những năm này, phương cách của thâm nhập đã phong phú thêm và đã định hình. Điều gì được bộc lộ trong những nói chuyện này, như qua một kính hiển vi, là cái trí tinh tế, bao la, và linh động lạ thường của Krishnamurti và sự tiến hành năng động của sự nhận biết. Tuy nhiên, những đối thoại này không là những câu hỏi và những trả lời. Chúng là một thâm nhập vào cấu trúc và bản chất của ý thức, một thâm nhập của cái trí, những chuyển động của nó, những biên giới của nó và cái vượt khỏi. Nó cũng là một tiếp cận đến phương cách của sự đột biến.

Trong những đối thoại này đã có một thâm nhập thăm thẳm cùng nhau của nhiều cái trí bị quy định và hoàn toàn khác biệt. Đã có một thách thức thăm thẳm của cái trí của Krishnamurti, một chất vấn nghiêm khắc không ngừng nghỉ mà đã mở toang những chiều sâu của tinh thần con người. Người ta là một bằng chứng không những cho sự đang lan rộng và đang khoét sâu của ‘cái vô giới hạn’ nhưng còn cả sự tác động của nó vào cái trí bị giới hạn. Chính sự thâm nhập này khiến cho cái trí linh động, đang làm tự do nó ngay tức khắc khỏi quá khứ và khỏi những khe rãnh của bị quy định hàng thế kỷ.

Trong những đối thoại này, Krishnamurti bắt đầu thâm nhập từ một vị trí hoàn toàn ngập ngừng, từ một trạng thái của ‘không-biết’, và vậy là trong một ý nghĩa, anh bắt đầu tại cùng mức độ như những người tham gia. Suốt bàn luận, những thâm nhập thuộc phân tích khác nhau được thực hiện; do dự và dò dẫm. Có một nghi vấn mà không-tìm kiếm đáp án tức khắc: một theo dõi từng bước một về những qui trình của sự suy nghĩ và sự cởi bỏ của nó – một chuyển động của xuyên thủng và thẩm thấu, mọi chuyển động đang xô đẩy sự chú ý mỗi lúc một thăm thẳm hơn đến tận cùng những ngõ ngách của cái trí. Một chuyển tải tinh tế không-từ ngữ xảy ra; một bộc lộ của chuyển động tiêu cực khi nó gặp gỡ chuyển động tích cực của suy nghĩ. Có ‘đang thấy’ của sự kiện, ‘cái gì là’, và sự đột biến của ‘cái gì là’. Lại nữa điều này được nhận biết từ những phương hướng khác nhau để kiểm tra giá trị của nó.

Bản chất của sự phân hai và sự không-phân hai được phơi bày trong ngôn ngữ đơn giản. Trong trạng thái của chất vấn đó, một trạng thái khi người chất vấn, người trải nghiệm tan biến, trong một ánh chớp, ‘sự thật’ được phơi bày. Nó là một trạng thái của không-suy nghĩ tuyệt đối.

‘Cái trí là thùng chứa của chuyển động, khi chuyển động đó không hình dạng, không “cái tôi”, không tầm nhìn, không hình ảnh, nó yên lặng tuyệt đối – trong nó không có ký ức. Vậy là, những tế bào não trải qua một thay đổi – Những tế bào não quen thuộc sự chuyển động trong thời gian. Chúng là cặn bã của thời gian và thời gian là chuyển động; một chuyển động bên trong không gian mà nó tạo ra khi nó chuyển động – Khi không có chuyển động, có sự tập trung vô hạn của năng lượng – Vì vậy sự đột biến là sự hiểu rõ về chuyển động, và sự kết thúc chuyển động trong chính những tế bào não.’

Sự bộc lộ của tích tắc của đột biến, của ‘cái gì là’, sáng tạo một kích thước hoàn toàn mới mẻ cho toàn lãnh vực của sự thâm nhập thuộc tôn giáo và thuộc trí năng.

Có lẽ có những lặp lại trong những đối thoại nhưng chúng không bị loại bỏ, bởi vì nếu làm như thế sẽ kiềm chế sự hiểu rõ về bản chất của ý thức và phương pháp của thâm nhập.

Chúng tôi cảm thấy rằng những bàn luận này sẽ có ý nghĩa cơ bản và trợ giúp cho những người đang tìm kiếm một manh mối cho sự hiểu rõ của cái tôi và của sự sống.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2019(Xem: 10876)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11347)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16296)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
17/05/2019(Xem: 3511)
Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáo và kinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”
10/05/2019(Xem: 12944)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
02/03/2019(Xem: 7612)
Con người là một sinh vật thượng đẳng, tối linh. Theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mọi hiện tượng tự thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, dần dà phát sinh những hiện tượng kế tục được gọi là tiến hóa hay còn gọi là biến thể để thăng tiến. Giám mục Leadbeater) người Anh, nhiều năm sống với các vị chân sư trên núi Tuyết Hy Mã tiết lộ: “Một vị chân sư còn cho biết thêm rằng toàn thể Thái dương hệ của chùng ta cũng đang tiến hóa từ thấp lên cao, không những các hành tinh đang tiến hóa mà các sinh vật trong đó cũng đều tiến hóa trong một cơ trời vĩ đại,mầu nhiệm vô cùng.
12/02/2019(Xem: 6793)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 82496)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11187)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5346)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567