Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến

15/07/201114:24(Xem: 3761)
Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 2

THUẬT GIẢ KIM VÀ SỰ ĐỘT BIẾN

New Delhi, ngày 14 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Tôi đang suy nghĩ liệu có quan trọng để bàn luận về thái độ của người Ấn độ cổ xưa đối với thuật giả kim và sự đột biến, và thấy liệu những khám phá của thuật giả kim có bất kỳ liên quan nào đến điều gì anh đang nói. Nó có nghĩa rằng Nagarjuna, một trong những người khai triển vĩ đại của tư tưởng Phật giáo, chính ông ấy là một Bậc thầy của thuật giả kim. Sự tìm kiếm của những người thuật giả kim ở Ấn độ không được hướng quá nhiều đến công việc biến những kim loại căn bản thành vàng, nhưng được hướng nhiều đến một thâm nhập vào những qui trình hóa học và tâm lý nào đó mà trong nó, thân thể và cái trí có thể được giải phóng khỏi những tàn phá của thời gian và những qui trình của sự thoái hóa nhờ vào sự đột biến. Lãnh vực của sự thâm nhập gồm có: làm chủ được hơi thở, uống một loại thuốc trường sinh được bào chế trong lò luyện đơn của phòng thí nghiệm, một chất thuốc mà trong nó thủy ngân có một vai trò quan trọng, và một châm ngòi của một vụ nổ trong ý thức. Hành động của ba việc này dẫn đến một đột biến của thân thể và cái trí. Biểu tượng được dùng bởi người thuật giả kim là tình dục; thủy ngân là hạt giống đực của thần Shiva, chất mica là hạt giống cái của nữ thần; sự hợp nhất của hai giống, không chỉ thuộc vật chất và trong những lò luyện đơn của phòng thí nghiệm nhưng còn trong chính ý thức, gây ra một đột biến; một tình trạng được tự do khỏi thời gian và những qui trình của tuổi tác, một tình trạng không liên quan đến hai yếu tố hợp thành đực và cái mà trong sự hợp nhất trọn vẹn của chúng đã châm ngòi cho sự đột biến. Việc này có liên quan đến bất kỳ điều gì anh đang nói?

Krishnamurti: Bạn đang hỏi về trạng thái của ý thức mà vượt khỏi thời gian.

P: Trong mọi cá thể người ta có thể thấy yếu tố đực và cái đang vận hành.

Người thuật giả kim đã thấy được sự cần thiết của hợp nhất, của cân bằng. Liệu có bất kỳ giá trị nào trong điều này?

Krishnamurti: Tôi nghĩ người ta có thể quan sát điều này trong chính người ta. Tôi đã quan sát rằng trong mỗi người chúng ta đều có những nguyên tố đực và những nguyên tố cái. Hoặc chúng ở trong một trạng thái cân bằng hoàn hảo hoặc trong một trạng thái mất cân bằng. Khi có sự cân bằng hoàn hảo này giữa những nguyên tố đực và những nguyên tố cái, vậy thì các cơ quan thân thể thực sự không bao giờ bị bệnh tật; có thể có những bệnh tật hời hợt nhưng sâu thẳm phía bên trong không có bệnh tật mà phá hoại các cơ quan thân thể. Có lẽ đây chắc là điều gì những người cổ xưa đã tìm kiếm – nhận dạng nó bằng chất thủy ngân và chất mica, nguyên tố đực và nguyên tố cái và qua thiền định, học hành, và có lẽ qua một dạng thuốc men nào đó đã cố gắng tạo ra sự hòa hợp hoàn hảo này. Trong chính người ta, người ta có thể thấy rất rõ ràng sự vận hành của những nguyên tố đực và những nguyên tố cái đang diễn ra. Khi một cái này hay cái kia quá nổi trội, sự mất cân bằng tạo ra bệnh tật; không chỉ những bệnh tật hời hợt nhưng còn cả những bệnh tật tại những chiều sâu. Tôi đã nhận thấy, theo cá nhân bên trong chính bản thân tôi, dưới những tình huống và khí hậu khác biệt, với những con người khác nhau mà hung hăng, bạo lực, những nguyên tố cái đảm đương và nổi trội nhiều hơn. Sự nổi trội này người khác sử dụng để khẳng định chính anh ấy. Nhưng khi có quá nhiều nguyên tố cái quanh người ta, những nguyên tố đực không trở nên hung hăng nhưng rút lui mà không có bất kỳ kháng cự nào.

S:Những nguyên tố đực và những nguyên tố cái là gì?

Krishnamurti: Thông thường nguyên tố đực là hung hăng, bạo lực, thống trị và nguyên tố cái là yên lặng, mà dẫn đến sự phục tùng và sau đó bị trục lợi bởi con người. Nhưng sự phục tùng mà được coi là chất lượng của nguyên tố cái, thực sự là sự mềm mỏng mà dần dần chinh phục nguyên tố đực.

Khi những nguyên tố cái và những nguyên tố đực hòa hợp hoàn hảo, chất lượng của cả hai nguyên tố đều thay đổi. Nó không còn là đực hay cái nữa. Nó là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn, liên quan đến điều gì được nghĩ như đực và cái. Những nguyên tố đực và những nguyên tố cái như những tích cực và những tiêu cực bởi vì chính bản chất của chúng là phân hai, ngược lại sự cân bằng hoàn hảo, một hòa hợp của hai nguyên tố có một chất lượng khác hẳn. Tôi được phép nói điều gì chứ? Nó giống như chất lượng của quả đất mà mọi thứ đều sống trong nó nhưng không thuộc về nó. Tôi đã nhận thấy điều này vận hành rất thường xuyên. Khi toàn cái trí rút lui khỏi thân thể và môi trường, nó giống như thể nó ở rất xa; xa không phải trong không gian và thời gian, nhưng một trạng thái mà không gì có thể tiếp xúc được. Trạng thái này không phải một trừu tượng và cũng không phải một rút lui nhưng một không-hiện diện tuyệt đối, phía bên trong. Khi sự hòa hợp hoàn hảo này xảy ra, bởi vì không có xung đột, nó có sức sống riêng của nó. Nó không hủy diệt cái còn lại. Vì vậy, xung đột không chỉ ở phía bên ngoài nhưng còn cả phía bên trong và khi xung đột này hoàn toàn kết thúc, có một đột biến mà không bị tiếp xúc bởi thời gian.

P: Người thuật giả kim đã gọi điều này là sự sinh ra của Kumara, của đứa trẻ kỳ diệu – cậu ấy mà không bao giờ già nua, cậu ấy mà hoàn toàn hồn nhiên.

Krishnamurti: Nó rất thú vị – nhưng thuật giả kim đã trở thành tương đồng quá nhiều với những ma thuật giả tạo.

P:Nhưng những người thuật giả kim, những vị thầy mà được biết đến như là rasa siddha – những người hiệp thông cùng bản thể – đã khẳng định rằng điều gì họ đã diễn tả, họ thấy bằng hai mắt riêng của họ, rằng điều gì họ ghi lại không phải từ nghe nói lại hay từ sự diễn giải của vị thầy. Có một yếu tố lý thú khác. Trong thuật giả kim cái dụng cụ, cái thùng chứa được chú ý nhiều. Khoa học luyện kim đã phát triển từ điều này – một trong những thùng chứa hay yantras được biết đến như là garbha yantra, cái thùng chứa tử cung. Nó là một từ ngữ chính trong thuật giả kim.

Krishnamurti: Liệu có một sự việc như chuẩn bị cái tử cung của cái trí, mà trong đó thời gian được bao hàm?

P:Những người thuật giả kim cũng hiểu rõ rằng tại điểm chuẩn của sự đột biến, của sự cố định của thủy ngân, của sự sinh ra của cái không-thời gian, thời gian không dính dáng.

Krishnamurti: Đừng sử dụng từ ngữ chuẩn bị. Chúng ta hãy trình bày nó theo cách này. Liệu có một trạng thái cần thiết, một nền tảng cần thiết, một thùng chứa cần thiết mà có thể chứa đựng cái này? Tôi muốn nói rằng không, bởi vì khi họ tìm được cậu bé Krishnamurti, những người mà được nghĩ là tiên tri trong thời gian đó, đã thấy rằng cậu ta không có chất lượng của ích kỷ và vì vậy cậu ta xứng đáng là cái thùng chứa, và tôi nghĩ rằng điều đó đã vẫn y nguyên như vậy từ lúc đó đến lúc này.

S:Đó có lẽ là như thế, nhưng còn những người bình thường giống như chúng tôi thì sao? Liệu đây là một đặc ân chỉ được trao tặng cho rất rất ít người, một người trong một ngàn năm hay nhiều hơn, hay liệu điều này xảy ra cho những người mà quan tâm đến tất cả điều này, mà cam kết đến tất cả điều này, mà thực sự nghiêm túc trong sự thâm nhập này?

Krishnamurti: Để trả lời câu hỏi này, những yếu tố thân thể và những trạng thái tâm lý nào đó là cần thiết. Thuộc thân thể phải có sự nhạy cảm. Sự nhạy cảm thuộc thân thể không thể xảy ra khi sử dụng thuốc men, nhậu nhẹt, ăn thịt. Sự nhạy cảm của thân thể phải được duy trì. Đó là điều cốt lõi. Thuộc truyền thống, thông thường một thân thể như thế vẫn còn phải ở trong một nơi được hỗ trợ bởi những người học trò, bởi gia đình. Thân thể không bị choáng váng hay bị phơi bày.

Liệu một người rất nghiêm túc trong tất cả điều này, liệu anh ấy với một thân thể mà đã trải qua những ảnh hưởng khắc nghiệt thông thường, liệu anh ấy có thể làm cho thân thể đó nhạy cảm cao độ? Và cũng vậy cái tinh thần mà đã bị tổn thương qua sự trải nghiệm, liệu nó có thể xóa sạch tất cả những tổn thương và bầm dập và tự làm mới mẻ lại chính nó để cho có một trạng thái không-tổn thương? Đây là hai điều cốt lõi – nhạy cảm và cái tinh thần không-dấu vết. Tôi nghĩ điều này có thể được thành tựu bởi bất kỳ người nào thực sự nghiêm túc. Bạn thấy cái tử cung luôn luôn sẵn sàng để thụ thai. Nó tự làm mới mẻ lại chính nó.

P:Giống như quả đất, tử cung có chất lượng cố hữu của tự làm mới mẻ lại này.

Krishnamurti: Tôi nghĩ, chắc chắn cái trí cũng có cùng chất lượng.

P: Quả đất im lìm, tử cung yên lặng và trong cả hai đều có khả năng cố hữu để làm mới mẻ.

Krishnamurti: Quả đất, tử cung, cái trí đều có cùng chất lượng. Khi quả đất không bị canh tác và tử cung trống không và cái trí không có bất kỳ chuyển động nào, vậy thì mới mẻ lại xảy ra. Khi cái trí hoàn toàn trống không, nó giống như tử cung; nó là tinh khiết để mới mẻ lại, thâu nhận.

P:Vậy thì đây là cái thùng chứa, nơi chứa đựng.

Krishnamurti: Vâng, đây là thùng chứa, nhưng khi bạn sử dụng từ ngữ thùng chứa và nơi chứa đựng bạn phải cực kỳ cẩn thận.

Chất lượng cố hữu của cái trí để tự làm mới mẻ lại chính nó này có thể được gọi là sức trẻ trung vĩnh cửu.

P: Nó được biết đến như là Kumara Vidya.

Krishnamurti: Vậy thì điều gì khiến cho cái trí già nua? Chắc chắn chuyển động của cái tôi khiến cho cái trí già nua.

P: Cái tôi làm cạn kiệt những tế bào?

Krishnamurti: Tử cung luôn luôn sẵn sàng thâu nhận. Nó luôn có một chất lượng của luôn luôn tự-làm tinh khiết chính nó, nhưng cái trí mà bị chất nặng bởi cái tôi – xung đột là cái tôi – không có không gian để tự làm mới mẻ lại. Khi cái tôi bị bận tâm với chính nó và những hoạt động của nó, cái trí không có không gian để tự làm mới mẻ lại. Vì vậy không gian là cần thiết, cả vật chất lẫn tinh thần. Làm thế nào điều này phù hợp với thuật giả kim?

P: Ngôn ngữ họ sử dụng là khác hẳn. Họ nói về sự đột biến qua hợp nhất.

Krishnamurti: Tất cả điều đó hàm ý nỗ lực, xung đột.

P: Làm thế nào người ta biết được?

Krishnamurti: Nếu nó hàm ý bất kỳ hình thức nào của qui trình, bất kỳ hình thức nào của thành tựu, nó hàm ý nỗ lực.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2019(Xem: 10797)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11256)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16195)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
17/05/2019(Xem: 3498)
Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáo và kinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”
10/05/2019(Xem: 12840)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
02/03/2019(Xem: 7561)
Con người là một sinh vật thượng đẳng, tối linh. Theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mọi hiện tượng tự thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, dần dà phát sinh những hiện tượng kế tục được gọi là tiến hóa hay còn gọi là biến thể để thăng tiến. Giám mục Leadbeater) người Anh, nhiều năm sống với các vị chân sư trên núi Tuyết Hy Mã tiết lộ: “Một vị chân sư còn cho biết thêm rằng toàn thể Thái dương hệ của chùng ta cũng đang tiến hóa từ thấp lên cao, không những các hành tinh đang tiến hóa mà các sinh vật trong đó cũng đều tiến hóa trong một cơ trời vĩ đại,mầu nhiệm vô cùng.
12/02/2019(Xem: 6746)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 81661)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11087)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5308)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567