HIỆN THỰC CỦA CHIẾN TRANH Đức Đạt Lai Lạt Ma (Minh Nguyên dịch)
Đức Dalai Lama thứ 14 được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1989, là một trong những nhân vật Phật giáo nổi tiếng thế giới, nhưng ngài thường tự nhận mình chỉ là một Tăng sĩ bình thường. Với đạo hạnh cao thâm và lối nói chuyện dí dỏm, hài hước, ngài luôn đem đến cho thính chúng những bài pháp thoại có giá trị chuyển hóa và niềm an vui. Mặc dù đã 77 tuổi, nhưng ngài thường đi hoằng pháp ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sau đây là bản dịch cách nhìn của ngài về hiện thực của chiến tranh.
Một điều hiển nhiên là chiến tranh và các cơ sở quân sự lớn là nguồn bạo lực lớn nhất trên thế giới. Cho dù mục đích của chúng là phòng thủ hay tấn công, các tổ chức bạo lực mạnh mẽ này tồn tại chỉ để giết người. Chúng ta nên suy nghĩ cẩn trọng về thực tế của chiến tranh.
Hầu hết chúng ta đều bị tác động để suy nghĩ rằng chiến đấu quân sự là điều thú vị và hấp dẫn, và là một cơ hội cho nam giới chứng minh khả năng và lòng dũng cảm của họ. Kể từ khi quân đội được xem là hợp pháp, chúng ta đều cảm thấy rằng chiến tranh là điều có thể chấp nhận được. Nói chung, không có ai cảm thấy rằng chiến tranh là tội phạm, hoặc việc chấp nhận chiến tranh là một thái độ vô đạo đức. Trong thực tế, chúng ta đã bị tẩy não. Chiến tranh không có gì thú vị và cũng không hấp dẫn. Chiến tranh là sự quái dị. Bản chất của nó là một trong những bi kịch và đau khổ.
Chiến tranh như là một ngọn lửa trong cộng đồng nhân loại, và nhiên liệu cho ngọn lửa ấy chính là sinh mạng của con người. Tôi nhận thấy phép loại suy này thật là phù hợp và hữu ích. Chiến tranh hiện đại được tiến hành chủ yếu với các hình thức khác nhau của lửa, nhưng chúng ta bị tác động để xem nó là sự ly kỳ và chúng ta nói về những vũ khí tuyệt vời ấy như là một phần đáng kể của khoa học công nghệ mà không hề nghĩ rằng, nếu những vũ khí ấy thực sự được đưa vào sử dụng thì chúng sẽ đốt cháy sinh mạng con người. Chiến tranh cũng mạnh mẽ giống như một ngọn lửa trong cách nó lây lan. Nếu một trong những khu vực bị suy yếu, sĩ quan chỉ huy sẽ gửi quân tiếp viện. Điều này chẳng khác gì ném trực tiếp những người tiếp viện ấy lên ngọn lửa. Nhưng vì chúng ta đã bị tẩy não để suy nghĩ như thế, chúng ta không quan tâm đến sự đau khổ của cá nhân những người lính. Không có binh sĩ nào muốn bị thương hoặc bị chết cả. Không ai trong số những người thân yêu của các người lính muốn bất cứ tổn hại nào đến với họ. Nếu một người lính bị giết chết, hoặc bị tàn phế, ít nhất là năm hay mười người thân và bạn bè của người lính ấy cũng bị khổ theo. Tất cả chúng ta đều nên kinh sợ trước mức độ của thảm kịch này, nhưng chúng ta đang rất bối rối.
Thẳng thắn mà nói, khi còn là một đứa bé, tôi cũng đã bị thu hút bởi quân đội. Bộ đồng phục của họ trông rất thông minh và xinh đẹp. Và đó chính là cách mà sự quyến rũ bắt đầu. Các trẻ em bắt đầu chơi các trò chơi mà một ngày nào đó sẽ dẫn chúng đến với sự rắc rối. Có rất nhiều trò chơi thú vị để chơi và trang phục để mặc hơn là những thứ dựa trên việc giết hại nhân mạng. Thêm nữa, nếu như người lớn chúng ta không để bị cuốn hút bởi chiến tranh, chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng, cho phép con cái chúng ta làm quen với các trò chơi chiến tranh là điều không tốt. Một số cựu chiến binh đã nói với tôi rằng, khi họ bắn người đầu tiên, họ cảm thấy khó chịu, nhưng khi họ tiếp tục giết, họ bắt đầu cảm thấy việc giết người là hoàn toàn bình thường. Theo thời gian, chúng ta có thể sử dụng cho bất cứ điều gì.
Không phải chỉ có trong thời kỳ chiến tranh, các cơ sở quân sự mới có tính tàn phá. Theo như kế hoạch xây dựng, chúng là những thực thể vi phạm lớn nhất về quyền con người, và bản thân những người lính là những người thường bị đau khổ nhiều nhất từ sự lạm dụng của các cơ sở quân sự. Sau khi được giải thích một cách hoa mỹ về tầm quan trọng của quân đội, về kỷ luật của nó và sự cần thiết để chiến thắng kẻ thù, các quyền của một số lượng lớn binh sĩ hoàn toàn bị tước mất. Sau đó họ bị ép buộc phải mất đi ý chí cá nhân của họ, và cuối cùng là hy sinh mạng sống của họ. Hơn nữa, một khi quân đội đã trở thành một lực lượng mạnh mẽ, có một điều hết sức rủi ro là nó sẽ phá hủy hạnh phúc của chính đất nước đó.
Có nhiều người có ý muốn phá hoại trong mọi xã hội, và sự cám dỗ để giành quyền lãnh đạo trong một tổ chức mà khả năng giúp họ thực hiện các tham vọng cá nhân có thể trở nên rất lớn. Nhưng bất luận là những kẻ bạo chúa sát nhân, độc tài, những người có thể hiện đang đàn áp các quốc gia, gây ra những tổn hại trên phạm vi quốc tế có tàn ác và xấu xa đến thế nào đi nữa, thì rõ ràng là họ không thể nào tổn hại người khác và giết hại vô số nhân mạng nếu như họ không có một tổ chức quân sự được xã hội chấp nhận. Hễ có quân đội mạnh mẽ thì sẽ luôn có những nguy hiểm về các chế độ độc tài. Nếu chúng ta thực sự cho rằng chế độ độc tài là một hình thức đáng khinh bỉ và hủy diệt của chính phủ, thì chúng ta phải nhận ra rằng sự tồn tại của các cơ sở quân sự mạnh mẽ là một trong những tác nhân chính của chế độ độc tài.
Chủ nghĩa quân phiệt cũng tốn hao rất lớn. Theo đuổi hòa bình thông qua sức mạnh quân sự là tạo ra một gánh nặng vô cùng lãng phí cho xã hội. Chính phủ ngày càng tiêu tốn một khoản tiền lớn cho việc trang bị vũ khí này, mà thực tế thì không ai thực sự muốn sử dụng chúng. Không chỉ có tiền mà còn cả những năng lượng giá trị và trí thông minh của con người cũng bị phung phí.
Tuy nhiên, mặc dù cực lực phản đối chiến tranh, nhưng tôi không ủng hộ sự nhượng bộ. Chúng ta cần phải có một lập trường mạnh mẽ để chống lại sự xâm lăng bất công. Ví dụ, rõ ràng là tất cả chúng ta đều cho rằng cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai là hoàn toàn hợp lý. Nó đã cứu nền văn minh khỏi sự thống trị của Đức Quốc xã, như Winston Churchill đã nhận định điều đó một cách thích đáng. Theo quan điểm của tôi, Chiến tranh Triều Tiên cũng chỉ vì nó đã cho Hàn Quốc cơ hội từng bước phát triển nền dân chủ. Nhưng chúng ta chỉ có thể đánh giá có hay không có một cuộc xung đột đã được xác minh là đúng trên cơ sở đạo đức với sự đánh giá muộn. Ví dụ, bây giờ chúng ta có thể thấy rằng trong chiến tranh lạnh, nguyên tắc ngăn chặn vũ khí hạt nhân đã có một giá trị nhất định. Tuy nhiên, rất là khó khăn để đánh giá tất cả các vấn đề này với bất kỳ mức độ chính xác nào.
Chiến tranh là bạo lực và bạo lực thì không thể lường trước được. Do đó, nếu có thể tránh được thì tránh và không bao giờ cho rằng chúng ta biết trước các kết quả của một cuộc chiến tranh sẽ có lợi hay không. Ví dụ, trong trường hợp của chiến tranh lạnh, thông qua việc ngăn chặn có thể giúp thúc đẩy sự ổn định, tuy rằng nó không tạo ra nền hòa bình đích thực. Bốn mươi năm gần đây ở châu Âu đã cho thấy chỉ là sự vắng mặt của chiến tranh, chứ chưa được thực sự hòa bình, nhưng sự thân tình đã được thành lập. Tốt nhất, việc xây dựng quân sự để duy trì hòa bình nên chỉ là một giải pháp tạm thời. Miễn là các đối phương không tin tưởng lẫn nhau, bất kỳ yếu tố nào cũng có thể phá vỡ sự cân bằng quyền lực. Hòa bình có thể đảm bảo an toàn lâu dài trên cơ sở sự tin tưởng chân thực.
Đức Dalai Lama (Minh Nguyên dịch từ “The reality of war” - http://www. dalailama.com/messages/ world-peace/the-reality-of-war) Giacngo.vn
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra.
Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến.
Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành.
Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu:
“Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà
Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ”
Có nghĩa là:
“Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà
Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
Bộ phim Phi Thuyền Serenity (2005) với thể loại khoa học viễn tưởng đã giới thiệu một hình ảnh tên là Miranda, nơi các vấn đề của nhân loại được giải quyết thông quan khoa học công nghệ. Tham lam, giận dữ, si mê (tam độc), phiền não bởi buồn bã, lo lắng và tuyệt vọng - rõ ràng là trùng lặp với một số kiết sử cổ điển của Phật giáo (Skt., Pali: samyojana)
Tôi đã rất ấn tượng bởi một số chủ đề trùng lặp mà tôi gặp phải từ một số tác giả rất khác nhau. Cụ thể tôi đã thưởng ngoạn tác phẩm “Sapiens: Lược Sử Loài Người” (קיצור תולדות האנושות, Ḳitsur toldot ha-enoshut) của Tác giả, Thiền giả, Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem, Cư sĩ Yuval Noah Harari, một tác phẩm nói bao quát về lịch sử tiến hóa của loài người từ thời cổ xưa trong thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào loài "Người tinh khôn" (Homo sapiens). Được ghi chép lại với khuôn khổ được cung cấp bởi các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa.
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.