Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiện thực của chiến tranh

30/10/201202:44(Xem: 3611)
Hiện thực của chiến tranh

3dalailamaHIỆN THỰC CỦA CHIẾN TRANH
Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Minh Nguyên dịch)

Đức Dalai Lama thứ 14 được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1989, là một trong những nhân vật Phật giáo nổi tiếng thế giới, nhưng ngài thường tự nhận mình chỉ là một Tăng sĩ bình thường. Với đạo hạnh cao thâm và lối nói chuyện dí dỏm, hài hước, ngài luôn đem đến cho thính chúng những bài pháp thoại có giá trị chuyển hóa và niềm an vui. Mặc dù đã 77 tuổi, nhưng ngài thường đi hoằng pháp ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sau đây là bản dịch cách nhìn của ngài về hiện thực của chiến tranh.

Một điều hiển nhiên là chiến tranh và các cơ sở quân sự lớn là nguồn bạo lực lớn nhất trên thế giới. Cho dù mục đích của chúng là phòng thủ hay tấn công, các tổ chức bạo lực mạnh mẽ này tồn tại chỉ để giết người. Chúng ta nên suy nghĩ cẩn trọng về thực tế của chiến tranh.

Hầu hết chúng ta đều bị tác động để suy nghĩ rằng chiến đấu quân sự là điều thú vị và hấp dẫn, và là một cơ hội cho nam giới chứng minh khả năng và lòng dũng cảm của họ. Kể từ khi quân đội được xem là hợp pháp, chúng ta đều cảm thấy rằng chiến tranh là điều có thể chấp nhận được. Nói chung, không có ai cảm thấy rằng chiến tranh là tội phạm, hoặc việc chấp nhận chiến tranh là một thái độ vô đạo đức. Trong thực tế, chúng ta đã bị tẩy não. Chiến tranh không có gì thú vị và cũng không hấp dẫn. Chiến tranh là sự quái dị. Bản chất của nó là một trong những bi kịch và đau khổ.

Chiến tranh như là một ngọn lửa trong cộng đồng nhân loại, và nhiên liệu cho ngọn lửa ấy chính là sinh mạng của con người. Tôi nhận thấy phép loại suy này thật là phù hợp và hữu ích. Chiến tranh hiện đại được tiến hành chủ yếu với các hình thức khác nhau của lửa, nhưng chúng ta bị tác động để xem nó là sự ly kỳ và chúng ta nói về những vũ khí tuyệt vời ấy như là một phần đáng kể của khoa học công nghệ mà không hề nghĩ rằng, nếu những vũ khí ấy thực sự được đưa vào sử dụng thì chúng sẽ đốt cháy sinh mạng con người. Chiến tranh cũng mạnh mẽ giống như một ngọn lửa trong cách nó lây lan. Nếu một trong những khu vực bị suy yếu, sĩ quan chỉ huy sẽ gửi quân tiếp viện. Điều này chẳng khác gì ném trực tiếp những người tiếp viện ấy lên ngọn lửa. Nhưng vì chúng ta đã bị tẩy não để suy nghĩ như thế, chúng ta không quan tâm đến sự đau khổ của cá nhân những người lính. Không có binh sĩ nào muốn bị thương hoặc bị chết cả. Không ai trong số những người thân yêu của các người lính muốn bất cứ tổn hại nào đến với họ. Nếu một người lính bị giết chết, hoặc bị tàn phế, ít nhất là năm hay mười người thân và bạn bè của người lính ấy cũng bị khổ theo. Tất cả chúng ta đều nên kinh sợ trước mức độ của thảm kịch này, nhưng chúng ta đang rất bối rối.

Thẳng thắn mà nói, khi còn là một đứa bé, tôi cũng đã bị thu hút bởi quân đội. Bộ đồng phục của họ trông rất thông minh và xinh đẹp. Và đó chính là cách mà sự quyến rũ bắt đầu. Các trẻ em bắt đầu chơi các trò chơi mà một ngày nào đó sẽ dẫn chúng đến với sự rắc rối. Có rất nhiều trò chơi thú vị để chơi và trang phục để mặc hơn là những thứ dựa trên việc giết hại nhân mạng. Thêm nữa, nếu như người lớn chúng ta không để bị cuốn hút bởi chiến tranh, chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng, cho phép con cái chúng ta làm quen với các trò chơi chiến tranh là điều không tốt. Một số cựu chiến binh đã nói với tôi rằng, khi họ bắn người đầu tiên, họ cảm thấy khó chịu, nhưng khi họ tiếp tục giết, họ bắt đầu cảm thấy việc giết người là hoàn toàn bình thường. Theo thời gian, chúng ta có thể sử dụng cho bất cứ điều gì.

Không phải chỉ có trong thời kỳ chiến tranh, các cơ sở quân sự mới có tính tàn phá. Theo như kế hoạch xây dựng, chúng là những thực thể vi phạm lớn nhất về quyền con người, và bản thân những người lính là những người thường bị đau khổ nhiều nhất từ ​​sự lạm dụng của các cơ sở quân sự. Sau khi được giải thích một cách hoa mỹ về tầm quan trọng của quân đội, về kỷ luật của nó và sự cần thiết để chiến thắng kẻ thù, các quyền của một số lượng lớn binh sĩ hoàn toàn bị tước mất. Sau đó họ bị ép buộc phải mất đi ý chí cá nhân của họ, và cuối cùng là hy sinh mạng sống của họ. Hơn nữa, một khi quân đội đã trở thành một lực lượng mạnh mẽ, có một điều hết sức rủi ro là nó sẽ phá hủy hạnh phúc của chính đất nước đó.

Có nhiều người có ý muốn phá hoại trong mọi xã hội, và sự cám dỗ để giành quyền lãnh đạo trong một tổ chức mà khả năng giúp họ thực hiện các tham vọng cá nhân có thể trở nên rất lớn. Nhưng bất luận là những kẻ bạo chúa sát nhân, độc tài, những người có thể hiện đang đàn áp các quốc gia, gây ra những tổn hại trên phạm vi quốc tế có tàn ác và xấu xa đến thế nào đi nữa, thì rõ ràng là họ không thể nào tổn hại người khác và giết hại vô số nhân mạng nếu như họ không có một tổ chức quân sự được xã hội chấp nhận. Hễ có quân đội mạnh mẽ thì sẽ luôn có những nguy hiểm về các chế độ độc tài. Nếu chúng ta thực sự cho rằng chế độ độc tài là một hình thức đáng khinh bỉ và hủy diệt của chính phủ, thì chúng ta phải nhận ra rằng sự tồn tại của các cơ sở quân sự mạnh mẽ là một trong những tác nhân chính của chế độ độc tài.

Chủ nghĩa quân phiệt cũng tốn hao rất lớn. Theo đuổi hòa bình thông qua sức mạnh quân sự là tạo ra một gánh nặng vô cùng lãng phí cho xã hội. Chính phủ ngày càng tiêu tốn một khoản tiền lớn cho việc trang bị vũ khí này, mà thực tế thì không ai thực sự muốn sử dụng chúng. Không chỉ có tiền mà còn cả những năng lượng giá trị và trí thông minh của con người cũng bị phung phí.

Tuy nhiên, mặc dù cực lực phản đối chiến tranh, nhưng tôi không ủng hộ sự nhượng bộ. Chúng ta cần phải có một lập trường mạnh mẽ để chống lại sự xâm lăng bất công. Ví dụ, rõ ràng là tất cả chúng ta đều cho rằng cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai là hoàn toàn hợp lý. Nó đã cứu nền văn minh khỏi sự thống trị của Đức Quốc xã, như Winston Churchill đã nhận định điều đó một cách thích đáng. Theo quan điểm của tôi, Chiến tranh Triều Tiên cũng chỉ vì nó đã cho Hàn Quốc cơ hội từng bước phát triển nền dân chủ. Nhưng chúng ta chỉ có thể đánh giá có hay không có một cuộc xung đột đã được xác minh là đúng trên cơ sở đạo đức với sự đánh giá muộn. Ví dụ, bây giờ chúng ta có thể thấy rằng trong chiến tranh lạnh, nguyên tắc ngăn chặn vũ khí hạt nhân đã có một giá trị nhất định. Tuy nhiên, rất là khó khăn để đánh giá tất cả các vấn đề này với bất kỳ mức độ chính xác nào.

Chiến tranh là bạo lực và bạo lực thì không thể lường trước được. Do đó, nếu có thể tránh được thì tránh và không bao giờ cho rằng chúng ta biết trước các kết quả của một cuộc chiến tranh sẽ có lợi hay không. Ví dụ, trong trường hợp của chiến tranh lạnh, thông qua việc ngăn chặn có thể giúp thúc đẩy sự ổn định, tuy rằng nó không tạo ra nền hòa bình đích thực. Bốn mươi năm gần đây ở châu Âu đã cho thấy chỉ là sự vắng mặt của chiến tranh, chứ chưa được thực sự hòa bình, nhưng sự thân tình đã được thành lập. Tốt nhất, việc xây dựng quân sự để duy trì hòa bình nên chỉ là một giải pháp tạm thời. Miễn là các đối phương không tin tưởng lẫn nhau, bất kỳ yếu tố nào cũng có thể phá vỡ sự cân bằng quyền lực. Hòa bình có thể đảm bảo an toàn lâu dài trên cơ sở sự tin tưởng chân thực.

Đức Dalai Lama
(Minh Nguyên dịch từ “The reality of war” - http://www. dalailama.com/messages/ world-peace/the-reality-of-war) Giacngo.vn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8134)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16461)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12446)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19891)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4419)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4308)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5022)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4255)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4230)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11568)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567