Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khí Hậu Trong Cơn Khủng Hoảng

31/08/201017:59(Xem: 2980)
Khí Hậu Trong Cơn Khủng Hoảng

KHÍ HẬU TRONG CƠN KHỦNG HOẢNG

A Climate in Crisis - Tuệ Uyển chuyển ngữ

Một sự phối hợp những nhân tố đang phá hoại một cách nhanh chóng vòng sinh vật – hệ thống sinh thái địa cầu hợp nhất tất cả những chủng loại sinh sống, sự liên hệ và sự tác động qua lại với đá, đất, nước và khí quyển.

Hệ thống khí hậu trái đất đã từng cung ứng nền tảng cho nền văn minh nhân loại đến sự phát triển hơn 5.000 năm qua. Xã hội chúng ta bây giờ mới chỉ bắt đầu nhận ra chiều sâu của sự liên hệ hổ tương sinh thái này. Sự khủng hoảng khí hậu mà chúng ta đang đối diện là nguyên nhân bởi sự vượt quá giới hạn khí carbon kết quả từ sự tiêu thụ nhiên liệu lỗi thời (than đá, dầu mõ,…), và từ sự tàn phá rừng. Điều chỉnh hành động là khẩn thiết cho sự tồn tại của chính loài người chúng ta. Tất cả những kỷ thuật chúng ta cần để tránh khí hậu tan vở đã hiện diện rồi. (Hình trên: Bảo Katrina tại vịnh Mễ Tây Cơ – courtesy NASA)

Loài người đã tiến vào một sự khủng hoảng môi trường nhanh chóng, tự tạo và đa phương diện. Chúng ta đang ở tại thời điểm có một sự liều lĩnh nghiêm trọng về thả trôi tự mãn đến việc buông trôi sự hâm nóng địa cầu. Trong vấn đề này, trang website này được thiết lập như một nguồn giáo dục cho cộng đồng Phật giáo quốc tế. Nó bao gồm ba tiết mục. Tiết mục Khoa học theo đây giải thích những nguồn cội, những động lực và những hậu quả của khủng hoảng khí hậu. Tiết mục những Giải pháp diễn tả một số kỷ thuật và chính sách then chốt có thể giải quyết khủng hoảng. Một tiết mục đặc biệt của trang website quan tâm đến Tuệ trí Phật giáo trong sự liên hệ đến phạm vi cá nhân và sưu tập đến vấn đề khí hậu. Ba tiết mục sẽ được cập nhật một cách thường xuyên để cống hiến những tin tức nóng bỏng nhất. Trang website này có thể được dùng căn cứ vào sự ưa thích cá nhân. Nó có thẻ hấp dẫn hơn và hữu dụng hơn để so sánh ‘những phần nhỏ’ từ những tiết mục khác nhau.

Chúng ta đối diện với hội tụ những khủng hoảng - khí hậu, sinh thái, và tiến hóa – mà chúng là do loài người tạo ra. Nhà bác học Einstein lưu ý rằng những vấn nạn sẽ không được giải quyết trong cùng một tâm thức đã tạo nên chúng. Một mô hình chuyển dịch quan trọng có thể hiện ra từ một tổng hợp của khoa học ngoại tại của những hiện tượng và khoa học nội tại của tâm thức.

Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố [1]:

Trong một nhận thức, những phương pháp của khoa học và Phật học là khác nhau: sự khảo nghiệm của khoa học tiến hành bởi thí nghiệm, dùng những công cụ phân tích những hiện tượng ngoại tại, trái lại sự khảo nghiệm tư duy tiến hành bằng sự phát triển chú tâm tinh tế (thiền quán), rồi thì điều này được dùng trong thể nghiệm nội quán của kinh nghiệm nội tại. Nhưng cả hai cùng chia sẻ một căn bản dựa vào kinh nghiệm một cách mạnh mẽ. Nếu khoa học biểu tỏ điều gì ấy tồn tại hay không tồn tại, thế thì chúng ta phải công nhận điều ấy như một sự thật. Nếu một học thuyết được thử nghiệm và tìm thấy là đúng, chúng ta phải chấp nhận điều ấy. Giống như thế, Phật giáo phải chấp nhận những sự thật – cho dù chúng được tìm thấy bởi khoa học hay tìm thấy bởi tuệ giác nội quán. Nếu, khi chúng ta khảo nghiệm điều gì ấy, chúng ta tìm thấy lý do và sự kiện chứng minh cho chúng, chúng ta phải chấp công nhận điều ấy là sự thật – ngay cả nó mâu thuẫn với sự giải thích của kinh điển đã dựa vào nhiều thế kỷ qua hay với một quan điểm hay khái niệm cũ kỷ đã khống chế từ lâu. Do thế, một thái độ căn bản được chia sẻ bởi Phật học và khoa học là chí nguyện tiếp tục sự tìm tòi thực tại bởi những phương tiện dựa vào kinh nghiệm và tự nguyện bất chấp sự ưng chuẩn hay lập trường lâu nay nếu sự nghiên cứu của chúng ta tìm thấy sự thật là khác biệt.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh [2] định rõ Bốn Chân Lý Cao Quý của Phật giáo như sau:

Chân lý thứ nhất của tứ diệu đế là sự hiện diện của khổ đau. Chân lý thứ hai là nguyên nhân của khổ đau. Chân lý thứ ba an lạc hạnh phúc là có thể. Chân lý thứ tư là có một con đường đưa đến hạnh phúc an lạc. Chúng ta hãy phân biệt giữa chân lý thứ nhất và chân lý thứ ba. Điều thứ nhất gọi là khổ đế hay dukkha, sự khổ đau. Điều thứ ba là diệt đế hay sukha, an lạc hạnh phúc. Chúng hoàn toàn khác nhau. Chúng ta rất thường sai lầm sự tham dục hay thèm khát với an lạc hạnh phúc. Chúng ta không cần phải sợ hãi khổ đau; chúng ta có thể đối diện với nó. Nếu chúng ta lẫn tránh nó chúng ta sẽ không bao giờ có cơ hội để chuyển hóa nó.

Sự khổ đau về khủng hoảng khí hậu do loài người tạo ra có một nguyên nhân dặc thù: nhiên liệu lỗi thời – kinh tế dẫn đường, với thành phần của nó về tích tập của tham dục và thói quen.

[1] Vũ trụ trong một nguyên tử đơn lẽ, Đức Đạt Lai Lạt Ma – 2005
[2] Nghệ thuật của quyền lực, Thiền sư Nhất Hạnh – 2007

Tác giả, Tiến sĩ J. Stanley, là một cựu thủ lĩnh nhóm nghiên cứu tại Cơ quan Bảo vệ Sức khỏe Anh quốc và thành viên của Hàn Lâm Viện Khoa học Nữu Ước. Tiết mục Khoa học và Những giải pháp của trang website này được viết cho những độc giả thông thường. Xin hãy so sánh trích dẫn từ Plan: 3.0, Sự Huy động để Bảo vệ Nền Văn minh bởi Lester Brown, sáng lập viên Viện Thế giới quan sát (the Worldwatch Institute).

A Climate in Crisis
Tuệ Uyển chuyển ngữ
05-09-2009
http://www.ecobuddhism.org/science/climate/a_climate_in_crisis/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/03/2023(Xem: 6490)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
03/02/2023(Xem: 5701)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6405)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5405)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13911)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18438)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13985)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12348)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6573)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8718)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567