Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 4

14/05/201316:46(Xem: 3174)
Phần 4

Phật Giáo Với Con Người

Thích Như Điển

---o0o---

CHƯƠNG BỐN

Cái nhìn của người Á Châu đối với đạo phật

Đạo Phật được truyền vào các nước Châu Á lần lượt từ các thế kỷ trước Thiên Chúa giáng sinh, đến sau Thiên Chúa độ 500 năm. Trong 1.000 đầu tiên nầy, sau khi Đức Phật nhập diệt, hầu như mọi dân tộc của Á Châu đều biết đến Đạo Phật. Nếu ngày xưa cách đây 2.500 năm về trước, Đức Phật sanh ra tại Âu hay Mỹ Châu, chắc chắn các dân tộc nầy đã trở thành Phật Tử rồi, không phải chờ đợi đến ngày nay họ mới tìm hiểu đến giáo lý của Đạo Phật nữa. Đây có lẽ do nhân duyên và có lẽ cũng do hạnh nguyện của Đức Phật, như Ngài đã từng nói nhiều lần trong các kinh điển khác nhau rằng Ngài đã sinh ra tại xứ Ấn Độ, một xứ Á Châu có nhiều giai cấp để cứu khổ độ sanh; nên người Á Châu có cơ duyên tiếp xúc với Đạo Phật trước hơn các dân tộc Âu Mỹ khác. Nếu ví Đạo Phật như một cây đại thụ, có gốc rễ mọc lên từ Á Châu, thì nơi đây Âu và Mỹ Châu chính là những cành lá sum sê đang đơm hoa kết trái. Vì thế cũng chẳng lấy làm lạ rằng Đạo Phật ở Á Châu ngày nay đa số ở vào thế thủ, trong khi đó Đạo Phật tại Âu Châu đang vươn vai trổi dậy trong những xứ văn minh cơ khí tại đây. Đó có lẽ là định luật bù trừ của tạo hóa chăng?

Ngày xưa chư Tăng khi còn ở trong nước, đa phần cũng chỉ lo nhiệm vụ cúng kiến, xây dựng chùa tháp và hành trì giới luật mà thôi; nhưng ngày nay khi ra hành đạo tại các xứ Âu Mỹ nầy, với ngần ấy hành trang vẫn không đủ để trang bị cho kiến thức của mình khi đi làm Phật sự. Do vậy, chính những vị Tăng sĩ vẫn phải tự học hỏi, trau giồi văn hóa và Phật học để ứng dụng vào trong cuộc sống của mình, nhằm ảnh hưởng tha nhân. Người Phật Tử Á Châu cũng thế, khi họ bị hỏi về Đạo Phật, họ cũng bí lối như thường, mặc dầu họ là những người Phật Tử đã quy y lâu đời. Do vậy phong trào học Phật ngày nay lại nổi lên khắp nơi, nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết ấy cho những người Á Châu học Phật. 

Hỏi: Đạo Phật thường hay lấy hoa sen để làm biểu hiệu. Vậy hoa sen có ý nghĩa gì?

Đáp: Hoa sen là một loại hoa mọc lên từ bùn nhơ; nhưng tỏa ra hương thơm ngát nhẹ nhàng. Như thế ấy, chúng sanh sanh ra trong cõi đời ơ trược nầy, mặc dầu tham, sân, si và ái nhiễm buộc ràng; nhưng trong chúng sanh ấy, nếu có ai tu và giác ngộ thành Phật được, thì cũng ví như hoa sen kia từ bùn nhơ nước đọng; nhưng vẫn tỏa ra được hương thơm tinh khiết dịu dàng. Ngoài ra hoa sen còn có 5 đặc tính sau đây, ít có loài hoa nào có được. Nên Đạo Phật đã lấy hoa sen tượng trưng cho Tôn Giáo của mình.

Đặc tính thứ nhất là ở trong cuộc đời vẩn đục nhưng không bị mùi đời làm ô nhiễm nội tâm cũng như ngoại cảnh. Điều nầy cho ta thấy rằng: Mỗi chúng sanh đều có tánh Phật. Với tánh Phật nầy nếu chúng sanh biết khổ công tu luyện thì sẽ thành Phật. Cũng thế đó, mặc dầu ở trong bùn, nhưng hoa sen vẫn không bị nhiễm mùi bùn.

Đặc tính thứ 2 - nhân và quả đồng thời. Không có một loài hoa nào trong khi ra hoa có quả như loài hoa sen. Điều nầy chứng tỏ rằng trong nhân có quả, trong quả có nhân.

Đặc tính thứ 3 - nhân và quả khác thời. Đây cũng là một điều đặc biệt của loài hoa sen. Không có một loài hoa nào, khi ra hoa mà hoa không từ cành để thành hình được, ngoại trừ hoa sen. Vì lá sen và hoa sen không cùng nhau một cành, mà cành và hoa sen riêng biệt nhau. Đây gọi là nhân quả khác thời. Có nhiều loại nhân gây ra trong đời nầy mà quả phải chờ trong nhiều năm tháng hoặc nhiều đời khác nhau mới gặt được.

Đặc tính thứ 4 - hoa sen không phải là loài hoa để trang sức. Người ta tặng nhau hoa hồng, hoa cẩm chướng v.v... nhưng không mấy ai đem hoa sen để tặng nhau, mà hoa sen chỉ dành riêng để cúng Phật. Ý nói về sự cao thượng của loài hoa nầy.

Đặc tính thứ 5 của loài hoa sen là ong bướm không bay vào. Ý nói hoa sen rất trang nghiêm, không lả lơi, mời gọi. Đây chính là đặc tính quân tử của loài hoa quý giá nầy.

Trên đây là 5 đặc tính của loài hoa sen mà Đạo Phật vẫn hay dùng đến để tượng trưng cho đặc tính cao thượng của con người. Phật sinh ra cũng đi trên hoa sen, Phật thành đạo cũng ngồi trên tòa sen v.v... Đây là ý chính mà Phật Giáo hay lấy hoa sen để tượng trưng vậy.

Hỏi: Người Phật Tử tại gia nên tụng những kinh nào hằng ngày và ý nghĩa của những loại kinh nầy?

Đáp: Hằng ngày ở tại nhà quý vị nên tụng kinh Cầu An Phổ Môn vào buổi tối, hoặc giả tụng kinh Tịnh Độ hay Cầu Siêu mỗi khi trong gia đình có cúng giỗ. Nếu những kinh nầy đã tụng thuần thục rồi, có thể tụng những loại kinh bộ như Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Pháp Hoa v.v... tùy theo thời giờ chia ra mỗi lần tụng chừng 1 tiếng đồng hồ và nhiều ngày tụng như thế sẽ xong một bộ kinh. Về ý nghĩa của các kinh nầy khi đọc tụng sẽ hiểu. Tuy nhiên những ý chính hoặc những nghĩa lý cao siêu hơn phải cần tham khảo riêng, không thể tìm hiểu ngay khi trì tụng, vì thiếu thì giờ. Khi tụng đọc chỉ cần chú tâm vào câu kinh tiếng mõ là đủ. Vì tụng có nghĩa là tập trung tư tưởng, khi tập trung tư tưởng cao, sẽ được huân tập nhiều tư tưởng lành.

Đôi khi có những bài thần chú không thể hiểu được; nhưng điều ấy cũng không cần thiết nữa. Vì khi trì tụng các thần chú nầy, chính sự đọc tụng ấy sẽ huân tập cho chúng ta có một nội lực rất thâm hậu.

Hỏi: Trước khi hành lễ, thường Phật Tử lạy 3 lạy. Xin cho biết lý do về việc lễ 3 lễ nầy.

Đáp: Lạy thứ nhất là lạy tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai cùng với giáo pháp và chư Tăng. Lạy thứ 2 là lạy Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, các vị Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v.. Lạy thứ 3 là lạy Đức Phật A Di Đà, cùng 2 vị Đại Bồ Tát Quan Âm, Thế Chí cũng như Ngài Địa Tạng Vương.

Chúng ta lễ Phật vì cung kính cái đức hạnh của chư Phật mà ta lễ. Lễ Phật cũng là dịp để chúng ta hạ mình xuống, dẹp đi cái bản ngã cống cao, tự mãn. Cúi mình xuống cũng là để nhìn sâu vào nội tâm của mình. Lạy Phật cũng có nghĩa là lễ bái cầu nguyện cho Phật tánh của mình được trưởng dưỡng như chư Phật dạy. Đó chỉ là 3 lễ đầu tiên. Nếu là nghi thức sám hối gồm cả trăm lạy. Nghi thức Ngũ bách danh (500 lạy), Tam thiên Phật danh (3.000 lạy), Vạn Phật (hơn 11.000 lạy) v.v... và v.v... tựu chung lạy Phật để thể hiện lòng mình đối với tự tánh của mình và để thể hiện sự cung kính đối với chư Phật và chư vị Bồ Tát.

Hỏi: Sau khi chết thân trả về cho tứ đại. Vậy thức nào còn và thức nào mất?

Đáp: Câu hỏi nầy người Âu Châu cũng thường hay hỏi, như đã trả lời phía trên; nhưng ở đây có thể đi sâu hơn một phần nữa. Trong thân xác chúng ta có hai phần. Một phần thuộc về tâm linh và một phần khác thuộc về hình tướng. Phần tâm linh thì không thấy được nên rất khó biết sự mất còn. Duy chỉ có phần hình thức có thể ngắm nhìn, sờ mó được; nên chúng ta có thể theo dõi các hiện tượng biến đổi của vật lý ấy. Nhưng chúng ta biết chắc một điều ngoài thể xác, tâm linh không thể tồn tại và khi thể xác tồn tại cũng không thể thiếu sự hiện hữu của tâm linh được; nên chúng ta có thể nói rằng: ngoài A không có B và ngoài B không có A là vậy. A tồn tại trong B và B cũng hiện hữu trong A. Nếu cái nầy thay đổi thì cai kia cũng thay đổi. Thức hay Sắc cũng phải thay đổi tùy theo từng trường hợp của hiện tượng vật lý biến đổi. Khi chết, tất cả các chất thuộc về đất, nước, gió và lửa tan biến; nhưng Thức thì thay đổi vị trí để đi đầu thai hay nói đúng hơn là đi nương tựa vào nơi khác, cũng giống như nước trở về nương với nước, gió trở về nương với gió, thì Thức cũng sẽ nương theo những hành nghiệp của mình đã tạo ra trong kiếp quá khứ mà lãnh thọ cho kiếp vị lai.

Hỏi: Thông thường giữa thời công phu khuya quý Thầy thường cho lạy xen kẽ vào những thời khóa tụng ấy. Như vậy những lạy ấy là những lạy gì?

Đáp: Sau khi kinh hành, nhiễu Phật niệm danh hiệu Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, nếu là ngày rằm hay mồng một, nhằm ngày Bố Tát (uposatta) của chư Tăng, tức lễ tụng giới, quý Thầy hay lạy chừng 30 lạy. Đó là nghi lễ chúc tán thù ân. Nghĩa là tán dương ân đức của chư Phật, chư vị Thánh Tăng, các vị Tổ Sư, chư vị truyền thừa Phật pháp, các vị Hòa Thượng làm giới sư truyền giới cũng như Yết Ma, Giáo Thọ và các vị Tôn Chứng Tăng Già. Ngoài ra còn lạy 4 ân nặng trong những ngày nầy, như ân quốc gia, ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, ân dạy dỗ của Thầy Tổ và ân của đồng loại.

Nếu là ngày thường, không phải rằm hay mồng một chư Tăng cũng cho lạy Phật sau khi đi kinh hành; nhưng ít hơn. Đó là lạy về công hạnh tu hành của Đức Bổn Sư từ khi sơ sanh đến lúc nhập Niết Bàn và lạy danh hiệu của 4 vị Thánh. Đó là Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm cũng như Địa Tạng.

Hỏi: Ai tin theo Phật, đều phải quy y Tam Bảo, hay chỉ cần tin tâm của mình là đủ. Tự mình làm lành lánh dữ là mình thấy tốt rồi, cần gì phải hình thức, mà trong lòng mình không biết tu, không biết lánh dữ, làm lành, cố chấp, vị kỷ v.v...

Đáp: Tam Bảo là ruộng phước, chúng ta cần nương vào đó để tín tâm được phát sanh. Quy y là sự trở về nương tựa với những giá trị cao cả đó. Cũng giống như trường học là nơi đào tạo con người. Nếu không có học đường và Thầy dạy cho mình học, khó ai có thể thành người hữu dụng cho xã hội. Thỉnh thoảng cũng có vài người không cần đi học vẫn biết chữ, cũng có nhiều người không cần tu vẫn chứng; nhưng số nầy là số đặc biệt, trong hằng triệu người mới có một người. Vì thế sự quy y và giữ giới rất cần cho người mới bước vào cửa Đạo, nhằm giữ gìn tín tâm của mình trên con đường tìm về sự giải thoát.

Tâm của chúng sanh luôn thay đổi. Lúc vui, lúc buồn, lúc giận, lúc hờn, thương, ghét v.v... vì vậy tự mình khó kiểm soát được tâm của mình. Do đó quy y và giới luật chính là một cái kiếng chiếu hậu để cho chúng ta nhận ra lỗi lầm của chính mình. Nếu không quy y và biết về giới luật thì tự mình khó thấy sự sai lầm được.

Hỏi: Tại sao khi niệm Phật cần phải lần chuỗi; ý nghĩa như thế nào? Sao có chuỗi dài, chuỗi ngắn?

Đáp: Chữ niệm có nghĩa là nhớ nghĩ. Thông thường tâm ta hay suy nghĩ vẩn vơ, phải trái, hơn thua, được mất, do đó dễ quên đi những gì đã làm và đã nói. Vì vậy khi nhớ nghĩ đến Phật phải cần đến tràng hạt để giúp cho tâm mình có nơi nương tựa, đỡ sai lầm, khi đã thuần thục rồi nhiều khi không cần đến tràng hạt nữa; nhưng lúc ban đầu tràng hạt rất cần cho những người mới bước vào cửa đạo. Tràng hạt có loại 18 hạt, 108 hạt v.v... Tất cả đều lấy 6 căn, 6 trần và 6 thức làm chuẩn. Mỗi loại 6 sanh ra 3 cảnh giới của đối tượng tức thành 18. Trong 18 đối cảnh ấy nhân với 6 lần thuộc về căn, trần hay thức tổng cộng là 108. Hay có nhiều nơi lấy 18 đối cảnh ấy nhân cho 6 lần hồng danh "Nam Mô A Di Đà Phật" sẽ ra 108 lần. Đây chỉ thuộc về hình tướng. Khi đã niệm quen rồi thì niệm niệm tương tục, không thay đổi, lúc ấy không cần đến số lượng 18 hay 108 nữa mà niệm cho đến khi nào tiến đến giai đoạn vô niệm mới thôi.

Hỏi: Theo đạo Phật, ái dẫn đến phiền não, luân hồi. Muốn hết phiền não phải diệt ái. Trong khi cha mẹ, anh em đau khổ, làm sao chính mình không đau khổ được. Làm sao cho hết đau khổ, khi vẫn còn yêu thương cha mẹ và anh em. Yêu thương nầy có phải là ái mà theo Đạo Phật biểu phải diệt không?

Đáp: Thập Nhị Nhân Duyên là 12 mắc xích, làm cho chúng sanh bị luân hồi sanh tử nhiều đời nhiều kiếp. Trong đó vô minh và ái dục là hai điều căn bản của luân hồi; nhưng vô minh thì khó đoạn trừ, chỉ có ái dục là dễ hơn cả. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể thực hành được. Nếu ai muốn sớm dứt mê mờ trở về con đường giải thoát thì hãy sớm cắt đứt dây ái ân. Còn ai đó nếu bị nhân duyên ràng buộc bởi sự yêu thương của gia đình, chồng vợ thì cũng không sao. Nếu kiếp nầy không giải thoát được thì chờ kiếp khác. Nơi đạo Phật không có sự ép buộc để chỉ phải làm trong một đời nầy. Việc nầy hoàn toàn tự giác, muốn thoát ra khỏi biển sanh tử luân hồi, chính mình phải tự chọn, không ai có thể thay thế cho mình được. Việc yêu thương cha mẹ, anh em hay chồng vợ v.v... đều thuộc về ái dục. Nếu muốn đoạn ái dục để bước vào con đường giải thoát, tự mình phải chọn lựa lấy để mà đi.

Hỏi: Hai câu: "Nhứt cú Đi Đà vô biệt niệm. Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương" là nghĩa gì?

Đáp: Trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, Ngài có phát nguyện rằng: nếu có chúng sanh nào đó ở thế giới Ta Bà nầy trước khi lâm chung mà chí tâm niệm đến một câu danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ cùng với Quan Âm, Thế Chí Bồ Tát đến tại nơi nầy để tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Nên 2 câu nầy cũng diễn tả lên ý nghĩa ấy.

"Nhứt cú Di Đà Vô Biệt Niệm" nghĩa là một câu Di Đà khi niệm không tán loạn thì chỉ trong giây lát có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc vậy. Đó là câu: "Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương".

Có nhiều người bảo: Cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà xa xôi trong muôn vạn dặm làm sao chỉ trong một khoảnh khắc có thể sanh về đó được?

Việc sanh về thế giới cực lạc cũng giống như chúng ta nằm trong cơn mộng mà thôi. Nhiều đêm thân thể chúng ta ở Âu Châu; nhưng tâm ta phiêu bồng đi đến nhiều thế giới khác như Mỹ Châu, Á Châu, Úc Châu v.v... hay nhiều khi thần thức của chúng ta còn dạo chơi ở những cõi khác nữa. Khi thức dậy vẫn thấy còn ở Âu Châu; nhưng chỉ cần trong một cơn mơ mà ta đã đi qua mấy chục ngàn cây số thì Cực lạc cũng vậy. Tuy xa nhưng rất gần, ngược lại tuy gần nhưng cũng rất xa.

Hỏi: Trong nghi thức Mông Sơn Thí Thực tụng vào buổi chiều tại mỗi chùa, trong ấy có câu: "Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ, tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn" là nghĩa như thế nào?

Đáp: Nếu đọc thêm đoạn trên nữa, chúng ta sẽ có một bài kệ như sau:

"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phần não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ

Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn

Tự tánh pháp môn thệ nguyện học

Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành".

Bốn câu trên là 4 lời đại nguyện của Ngài Phổ Hiền. Bốn câu dưới tương truyền là của Ngài Lục Tổ Huệ Năng. Tổ thứ 6 Thiền Tông của Trung Quốc.

Bốn câu trên có nghĩa tiếng Việt là:

"Chúng sanh không số lượng, thề nguyện đều độ khắp; phiền não không cùng tận, thề nguyện đều dứt sạch; Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học; Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện được viên thành.

Mỗi chúng sanh đều có tự tánh, thề nguyện đều độ khắp. Phiền não đều do tự tánh mà ra, thề nguyện đều dứt sạch, Pháp môn đều từ tự tánh mà có, thề nguyện đều tu học. Phật đạo đều có tự tánh, thề nguyện được viên thành.

Trong Mông Sơn Thí Thực phần đầu diễn tả về cảnh giới của Hoa Nghiêm như câu: "nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhứt thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhứt thiết duy tâm tạo". Nghĩa là: "mọi người đều nên biết, tất cả 3 đời của chư Phật, đều quán sát về tánh pháp giới là tất cả đều do tâm tạo". Rồi sau đó là thần chú rút ra từ nghi thức Du Già chẩn tế cô hồn để tế độ cho các vong linh còn chìm đắm nơi cảnh khổ đau của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Vì vậy các vị Bồ Tát và các vị Tổ Sư đều có tâm nguyện muốn cứu độ họ, để nương nhờ vào Phật lực mà thác sanh về những thế giới an lành hơn.

Hỏi: Làm sao để một người có thể phát tâm đi xuất gia?

Đáp: Xuất gia là việc lớn. Nó không đơn thuần. Có nhiều người mong muốn nhưng cha mẹ hoặc vợ hay chồng lại không muốn. Ngược lại có nhiều lúc gia đình mong muốn mà chính mình lại chưa phát khởi được thiện tâm. Vả chăng việc xuất gia là do nhân duyên và vì có căn rễ nhiều đời đã gieo trồng duyên lành với Phật pháp nên kiếp nầy sinh ra mới được xuất gia học đạo.

Khuyến khích một người đi xuất gia học đạo được công đức rất lớn; nhưng điều quan trọng là chính đương sự phải tự phát nguyện xuất gia thì con đường đi còn lại mới vững chắc được. Tôi vẫn hay ví việc xuất gia như một người nấu cơm, như câu chuyện sau đây:

Thông thường trong nhà có người giúp việc, lo cho mình miếng cơm, đồ uống. Một hôm nọ người giúp việc lỡ tay nấu cơm không chín, khi dọn cơm lên mình chê bai đủ điều. Rồi một hôm nọ người giúp việc bận công việc ở xa không thể nấu cơm cho mình được. Do vậy, tự tay mình phải nấu cơm. Vì không có kinh nghiệm, nên nấu cơm không chín, khi dọn lên ăn rất ngon. Vì chính tự tay mình nấu. Việc xuất gia cũng giống như người nấu cơm, như ví dụ đã vừa được nêu bên trên. Tuy nhiên việc trợ duyên để một người xuất gia tu hạnh giải thoát là một công đức không nhỏ. Nhưng trước khi xuất gia nên phát tâm bồ đề để được lợi lạc cho chính bản thân mình cũng như cho những người đi sau trong mai hậu.

Hỏi: Làm thế nào để dứt bỏ hết tham sân si ngã mạn trong đời sống gia đình cũng như ngoài xã hội?

Đáp: Tham, sân và si là 3 căn bản phiền não làm cho con người mãi trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Đây không phải là một vấn đề đơn thuần, mà là một chủng tử đã huân tập từ nhiều đời nhiều kiếp, không phải đơn giản để chỉ dứt bỏ trong một đời. Nếu muốn dứt trừ tham sân si, phải hành trì giới định huệ cũng trong nhiều đời, nhiều kiếp mới mong trừ sạch được cội rễ nầy. Khi thực hành giới định và huệ cần phải tinh tấn và chuyên cần, không thối thác đạo tâm trên con đường tu học thì mới có kết quả. Ngã mạn là một vấn đề khác không liên quan nhiều đến tham sân si, nó cũng là loại gốc rễ của tội lỗi thuộc về trạng thái của tâm linh. Nếu ai dứt bỏ được hết, tức vô minh đã trừ diệt; nên sự giác ngộ giải thoát có thể thực hiện trong đời nầy. Nếu ai không thể thực hiện trong một đời được, thì phải cần nhiều thời gian để gột rửa. Nhanh hay chậm là tùy thuộc vào mỗi cá nhân hành trì mà thôi. Muốn gia đình được êm đẹp, muốn xã hội được an vui thì mỗi cá nhân phải tự tu tĩnh thân tâm của mình thì cuộc sống mới thanh thoát hơn.

Hỏi: Bổn phận của một người Phật Tử tu học tại gia ngoài việc tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, lễ bái hằng ngày có cần đòi hỏi thêm việc gì nữa không để sự tu tập ngày càng tinh tấn hơn.

Đáp: Tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, lễ Phật là 4 công năng sinh động của người Cư sĩ tại gia cũng như xuất gia. Chính nhờ những việc tu học như thế mà cái đức được phát sanh. Cái đức nầy không do sự cầu xin mà có. Mà chính do từ sự tu học mà ra. Cái đức nầy sẽ phát sinh ra trí tuệ. Trí tuệ giống như một ngọn đèn. Nếu chúng ta đem ngọn đèn nầy chuyền ánh sáng qua ngọn đèn khác thì ánh sáng kia càng ngày càng được sáng tỏ hơn. Nếu lỡ tắt một hai ngọn, ánh sáng ấy vẫn không bị suy giảm.

Ngoài 4 công việc quan trọng trên, người Phật Tử cần phải bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ cũng cần phải hành trì nữa. Đây cũng là con đường của Bồ Tát mà chúng sanh cũng cần phải thực hành. Bố thí sẽ sinh ra được cái phước hữu lậu, là đời nầy hay đời sau sẽ giàu có an vui. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, cái phước giống như cây đèn cầy, cháy mãi rồi một ngày nào đó cây đèn kia cũng phải hết. Vì vậy, là Phật Tử tại gia nên tu học cả hai phương diện về tu phước cũng như tu huệ; nên gọi là phước huệ song tu.

Hỏi: Trong Tịnh Độ Tông, pháp môn niệm Phật là một pháp môn cho tất cả Phật Tử xuất gia cũng như tại gia. Muốn đạt đến chỗ "nhất tâm niệm Phật" tràng hạt có phải là một phương tiện cho sự định tâm không? Tại sao phải lần chuỗi? Tràng hạt có từ thời nào?

Đáp: Niệm có nghĩa là nhớ nghĩ hay tập trung tư tưởng. Ban đầu hành giả phải cần đến phương tiện như tràng hạt, tượng Phật v.v... để làm chuẩn cho việc niệm Phật cũng như quán tưởng đến Đức Phật; nhưng khi đã thuần thục rồi - nghĩa là khi sự niệm Phật đã nhập tâm rồi thì những phương tiện ấy không cần đến nữa-. Sự lần chuỗi giúp cho chúng ta phương tiện để định tâm, tuyệt nhiên không phải là mục đích của sự nhứt tâm.

Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã dạy về pháp môn niệm Phật như quán tượng, quán tưởng, trì danh niệm Phật v.v... thuở bấy giờ có lẽ không dùng đến tràng hạt; nhưng khi Phật Giáo Đại Thừa được phát triển từ Ấn Độ sang Trung Hoa do các Ngài Long Thọ, Mã Minh, rồi các vị Tổ Sư tại Trung Hoa đã vì phương tiện mà chế ra tràng hạt để việc trì danh niệm Phật được dễ dàng hơn chăng? Nhờ có tràng hạt mà người niệm Phật có thể biết được số lượng cũng như thời gian trong khi hành trì.

Hỏi: Cõi Tây Phương có người nữ không?

Đáp: Cõi Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà làm Giáo chủ được gọi là cõi "phàm thánh đồng cư Tịnh Độ". Có nghĩa là cả người phàm trước khi lâm chung nếu nhứt tâm niệm Phật, cũng có thể vãng sanh về nước Cực Lạc; đã là phàm thì chắc chắn cũng có người nữ; nhưng khi đã về được Cực Lạc rồi thì thân nữ sẽ hóa thành thân nam. Bởi lẽ trong kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng như trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, Ngài điều khẳng định rằng trong cõi nước của Ngài không có đàn bà và không có 3 đường dữ như địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh v.v...

Từ cõi tiên trở xuống cõi người, thân người nữ vẫn còn hiện hữu, vì trong cõi dục và cõi sắc cần có sự hiện hữu của nữ giới; nhưng khi lên đến cõi vô sắc và cõi của chư vị Bồ Tát và chư Phật thì các thức tự biến hóa, nên thân người nữ không cần thiết trong việc sinh sản nữa; nên tất cả tư tưởng và hình tướng đều thể hiện hình nam nhơn, nằm trong ý nghĩa nầy.

Giữa nữ và nam không sai biệt nhau về Phật tánh mà chỉ sai biệt nhau về hình thức. Vì thế, khi đã thành Phật hay về cõi giải thoát rồi thì không có chú ý về hình tướng nữa mà chỉ quan trọng nơi tâm thức thôi.

Hỏi: Tịnh Độ Tông là gì? Cách tu và hệ phái nầy khác với Thiền Tông, Mật Tông ra sao?

Đáp: Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã dạy vô lượng pháp môn cho chúng sanh thuở bấy giờ. Mục đích để chỉ bày và dẫn dắt mọi người bỏ bờ mê trở về bến giác. Đây là bản hoài chính của chư Phật. Thuở Ngài còn tại thế, tùy theo từng hoàn cảnh, trình độ của người nghe khác nhau mà Ngài phương tiện để nói pháp. Cho đến sau khi Ngài nhập diệt 100 năm tinh thần tông phái vẫn chưa có gì rõ ràng. Nếu có thuở bấy giờ cũng chỉ chia ra làm hai nhóm. Một nhóm bảo thủ, muốn giữ giới luật như thời Phật còn tại thế. Nhóm nầy gọi là Hinayana hay Tiểu Thừa Giáo và một nhóm khác đông người hơn bảo rằng phải thay đổi trong cách ăn uống để phù hợp với thời gian và phái nầy duy trì thay đổi mãi cho đến thế kỷ thứ nhất về phần tư tưởng cũng như triết học; nên Đại Thừa Giáo đã được hình thành.

Khi đạo Phật được truyền sang Trung Hoa vào đầu kỷ nguyên thì tại Trung Hoa cũng chưa hình thành các hệ phái rõ rệt, mãi cho đến đời Đường thuộc thế kỷ thứ 7, thứ 8 sau Thiên Chúa, đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo Trung Hoa nên các vị chuyên về Thiền muốn thành lập một Tông riêng, Tịnh Độ một tông riêng, Mật Tông một tông riêng, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Luật Tông v.v... Có tất cả 10 Tông được chuyên môn hành trì pháp môn của Đức Phật đã dạy.

Tịnh Độ Tông do Ngài Huệ Viễn lập tông, đã khai sáng ra nền đạo nầy. Tông nầy lấy pháp môn niệm Phật làm nền tảng của việc tu học và phương pháp để được nhập môn là lấy tín nguyện và hạnh làm pháp môn thực hành và mục đích là cầu vào tha lực của Đức Phật A Di Đà để khi lâm chung được tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Thiền Tông do Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ mang sang Trung Hoa vào đời nhà Lương vào thế kỷ thứ 6 và Tông nầy phát triển mạnh tại Trung Quốc cũng như các nước khác trên thế giới mãi cho đến ngày nay. Tông nầy lấy tâm làm chủ. Khi nào tham thiền ngộ được chơn tánh, lúc ấy sẽ thành Phật. Tông nầy nương vào tự lực của mình để được giải thoát. Hình thức của tha lực rất ít thấy nơi Tông nầy.

Mật Tông lấy sự trì chú làm căn bản trong khi tu hành. Ngài Đại Nhật Như Lai là Giáo chủ của Tông nầy. Ngoài ra Ngài Ti Lô Giá Na Phật cũng được Tông nầy thờ phượng và lễ bái. Cả thân mật, khẩu mật và ý mật được đồng nhứt thể, thì Như Lai tánh sẽ hiển bày.

So ra 3 Tông phái nầy mỗi Tông đều có một cách hành trì khác nhau; nhưng tựu chung tất cả cũng đều đưa chúng sanh về cảnh giới giải thoát của sanh tử luân hồi và của khổ đau tục lụy.

Hỏi: Làm thế nào để áp dụng Đạo Phật vào trong cuộc sống hằng ngày của một Phật Tử tại gia, mặc dầu sự phát tâm bồ đề vẫn có; nhưng những ràng buộc trong cuộc sống gia đình vợ chồng, con cái và trong xã hội với công ăn việc làm, liệu có thể thành Phật được không?

Đáp: Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Với Phật tánh nầy chúng ta sẽ thành Phật. Bất luận là nam hay nữ, không có sự phân chia trong trường hợp nầy. Tuy nhiên nhanh hay chậm là tùy theo mỗi người tinh tấn đến đâu. Con đường sanh tử rất dài, mà con đường giác ngộ cũng không ngắn. Cũng có lắm người tu chỉ trong một kiếp rồi ngộ trong một thời gian ngắn, không cần ở kiếp thứ hai; nhưng cũng có lắm người cần đến kiếp thứ 500 hay cho đến 1.000 kiếp mới thành Phật được. Cõi Ta Bà nầy chỉ là cõi tạm. Mọi người đều vì sự sống mà có sự va chạm với nhau, chiến tranh giết chóc, hận thù nên tâm từ bị giảm, mà tham sân si ái dục càng tăng, do đó rất khó thành Phật trong kiếp nầy, nếu chúng ta không dụng tâm chín chắn.

Hỏi: Hiện nay kinh sách và kinh tụng có rất nhiều danh từ Hán-Việt, nên rất khó hiểu cho số đông Phật Tử, nhất là giới thanh niên, đọc thấy không thấu triệt. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại có dự định Việt hóa các kinh sách ấy không?

Đáp: Tất cả những sách viết về Phật Giáo bằng tiếng Việt hầu như đã viết rất thoát nghĩa. Đôi khi vẫn còn một ít danh từ Hán-Việt. Vì lý do dễ hiểu là trong hơn 1.000 năm Việt Nam đã lệ thuộc phương Bắc nên đa số các danh từ Hán-Việt nầy cũng hay dùng đến, mãi cho đến gần 1.000 năm sau, người Việt vẫn không thể không dùng các chữ Hán trong văn chương, ngôn ngữ, học thuật, triết học được. Vì vậy ai muốn nghiên cứu sâu về Đạo Phật ắt phải tra cứu nhiều hơn, lâu ngày sẽ thuần thục.

Riêng phần kinh tụng còn rất nhiều bài kinh bằng chữ Hán hoặc phiên âm chữ Phạn. Tuy nhiên cũng có một số bài đã được dịch thoát như Bát Nhã, Khể Thủ, Quy Mạng ra tiếng Việt; nhưng khi tụng âm tiếng Việt, ý nghĩa nghe không thâm trầm bằng âm chữ Hán; nên một số Chùa ở ngoại quốc cũng như trong nước vẫn còn dùng các bản kinh chữ xưa lẫn nay. Đây có thể gọi là thời gian chuyển tiếp; trong tương lai thế hệ trẻ có thể xử dụng chỉ một bản kinh tiếng Việt cũng đầy đủ rồi.

Ngôn ngữ là nếp sống cao của cuộc sống tâm linh. Vì vậy nếu ngôn ngữ càng phong phú chứng tỏ rằng cuộc sống tâm linh rất đa dạng. Vì vậy những nhà học Phật cần tra cứu nhiều hơn thì nghĩa lý mới sáng tỏ hơn.

Hỏi: Làm cách nào để dẹp được tâm sân hận khi có người làm cho mình giận?

Đáp: Sở dĩ mình giận người đối diện, vì mình chấp vào lời nói của người ấy. Điều thứ hai không kém phần quan trọng hơn là mình nghĩ mình bị xúc phạm, chạm đến tự ái. Khi nào mình xem lời nói của đối phương là điều không có thật; nó chỉ là một sự giả danh mà có. Khi nào mình tự dẹp bỏ được sự chấp trước nơi tâm thức của mình, thì lúc ấy tham sân si của mình sẽ khó mà hiện diện nơi tâm thức của mình. Sau đây là một câu chuyện đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế. Xin kể lại để chúng ta rút kinh nghiệm từ cái nhìn siêu việt của Đức Phật.

Chuyện kể rằng: Có một người đàn bà ngoại đạo, không muốn đạo của Đức Phật càng ngày càng được dân chúng tin theo; nên bà ta theo một mật lệnh nào đó, ngày đêm đến trước vị Giáo chủ của Đạo Phật là Đức Thích Ca để tìm cách chửi mắng Ngài. Ngày đầu tiên bà ta chửi mỏi miệng rồi nghỉ; đến ngày thứ 2 bà ta cũng bắt đầu bằng sự chửi rủa bâng quơ và đến ngày thứ 3, bà vẫn chửi như trước; nhưng sức đã kiệt, mà Đức Phật, một bậc đại giác ngộ đã chả thốt nên một lời. Đoạn bà đến trước Đức Phật gần hơn để hỏi Ngài rằng:

- Tôi hỏi ông là người hay sỏi đá?

- Ta là người; nhưng khác với mọi người. Đức Phật trả lời thế.

- Vậy ông có nghe những lời của tôi chửi mắng ông trong 3 ngày nay không?

- Ta có nghe, nhưng diều ấy không thuộc về ta. Đức Phật từ tốn trả lời thế. Sau đó Đức Phật hỏi lại bà ta rằng:

- Ví dụ như nhà bà có đám giỗ, sau đó đem một số mâm cỗ nào cơm, canh, rau, thịt đến biếu người hàng xóm. Nhưng người hàng xóm không nhận món cỗ biếu kia, vậy mâm cỗ ấy sẽ thuộc về ai?

- Thì thuộc về người hàng xóm, chứ thuộc về ai nữa. Người đàn bà trả lời thế.

- Cũng như vậy đó! những gì nhà ngươi đã mang lại chửi mắng 3 ngày nay; nhưng cái đó không thuộc về ta, vậy xin trả lại cho người.

- Người đàn bà há hốc mồm trước một bậc siêu phàm như thế.

Đúng là một câu chuyện mà trên thế gian nầy có một không hai. Vì thông thường chúng ta hay ăn miếng trả miếng, không bao giờ nhường nhịn lẫn nhau. Vì vậy nên mới có sân hận triền miên và chiến tranh loạn lạc. Còn những bậc Đại Giác Ngộ thì khác xa những người tầm thường của nhân thế.

Hỏi: Theo quan điểm của Phật Giáo, con người có nguồn gốc từ đâu? và theo thuyết tiến hóa của Darwinn trái với quan điểm của Phật Giáo như thế nào?

Đáp: Đạo Phật quan niệm rằng mỗi chúng sanh sanh ra trong thế giới nầy vì do nhân duyên và nghiệp lực mà có, rồi chính do nhân duyên và nghiệp lực xoay chuyển mà tồn tại rồi mất đi. Con người có mặt trên quả địa cầu nầy từ vô thỉ. Ngày nay khoa học vẫn chưa xác định chính xác là loài người xuất hiện vào mấy trăm triệu năm về trước và vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Dần dà thuyết của Đạo Phật lại tương ứng với khoa học nhiều hơn.

Thuyết 12 nhân duyên của Đạo Phật đã nói lên rõ ràng về nguồn gốc của vũ trụ và nguồn gốc của con người. Darwinn nghĩ rằng loài người là những động vật từ khỉ biến hóa thành; nhưng ở đây và bây giờ nhiều nhà khoa học đã khám phá ra rằng khỉ thông minh hơn những loài động vật khác và gần với loài người nhất; nhưng vẫn chưa hẳn là hoàn toàn đúng. Vì ngày nay có nhiều chú khỉ vẫn chưa thành người và cũng có lắm người vẫn còn tư tưởng của khỉ. Điều nầy chỉ chứng thực với sự luân hồi chứ không thích hợp với thuyết tiến hóa của Darwinn. Vì lẽ một bên thì chủ trương rằng do nghiệp mà có, còn một bên khác chủ trương rằng do một vật có sẵn hay một đấng sáng tạo tạo thành. Điều nầy thấy rất ít tồn tạo trong giáo lý của Đạo Phật.

Hỏi: Nhân loại tiến bộ do lý trí. Nhưng đã dùng lầm đường nên nay đã hủy hoại thiên nhiên. Vậy làm sao để dùng lý trí một cách xác thực hơn?

Đáp: Trong chúng sanh có 2 phần. Một phần thuộc về tâm thức (lý trí) và một thuộc về thể xác (vật chất). Hai vấn đề nầy bổ sung và cộng hưởng với nhau. Cái nầy sẽ không tồn tại được, nếu không có cái kia. Con người thường hay ỷ vào lý trí của mình nên mới đi sát hại thiên nhiên và muốn cho thiên nhiên cung phụng cho loài người đủ mọi tiện nghi vật chất; nhưng họ không ngờ rằng, chính vì sự sát hại thiên nhiên đó, như phá rừng, thử bom nguyên tử, giết hại các súc vật, cây cỏ v.v... đã làm cho môi sinh trở nên ô nhiễm. Chính loài người đã bị sự ô nhiễm nầy làm nên bịnh tật khó chữa trị. Vậy điều căn bản là loài người hãy biết dừng lại nơi nào để được bảo vệ cho cả hai. Đó chính là sự thể hiện của lý trí. Nếu không biết tự dừng lại thì chính loài người cũng không còn tồn tại lâu dài hơn trên quả đất nầy nữa, mà thiên nhiên cũng không thể bảo vệ con người, khi con người quá tàn nhẫn với thiên nhiên.

Hỏi: Đạo Phật có nói về nhân quả và nhân duyên. Hai chữ nhân đó có là một chữ và một nghĩa không? Liên hệ giữa 2 thuyết đó như thế nào?

Đáp: Nhân ở đây có nghĩa là nguyên nhân; quả có nghĩa là kết quả; duyên có nghĩa là tùy thuộc vào. Hai chữ nhân nầy nếu viết bằng chữ Hán, có ý nghĩa giống nhau. Nhưng thế nào là nhân duyên và thế nào là nhân quả? Ví dụ một người đem hạt bầu để gieo và sau 4 tháng thì hái trái. Đó là nhân quả, với cái nhân đem ương hạt bầu và qua thời gian ngắn 4 tháng lại gặt được quả bầu; nhưng cái duyên để có được trái bầu là nhờ vào phân, nước, thời tiết và công lao chăm sóc của người trồng. Cái duyên nầy rất quan trọng. Nhiều khi cái nhân tốt; nhưng thiếu trợ duyên thì quả sẽ sinh ra trái xấu. Hai thuyết nầy liên quan rất chặt chẽ như hình với bóng. Nếu hình ngay thì bóng thẳng, hình vẹo thì bóng cong. Đơn giản thế thôi. Nhưng rất quan trọng. Cũng có nhiều nhân gây ra trong đời nầy nhưng mãi đến nhiều đời sau mới gặt; hoặc giả cũng có nhiều loại quả phải chờ đến nhiều kiếp sau mới sinh trưởng vì lệ thuộc bởi duyên và nghiệp mà mỗi loại nhân đã gây ra. Tựu chung, nếu nhân tốt và duyên tốt thì sẽ sinh ra quả lành. Nếu một trong ba yếu tố ấy không bổ sung cho nhau thì kết quả sẽ sinh ra khác.

Hỏi: Nhân duyên chuyển biến sinh ra mọi vật. Vậy có đúng là bản thể của nhân duyên là biến chuyển không? Và sự biến chuyển đó rất là vô tận, rộng lớn? Nếu cái biến chuyển đó phức tạp như thế, làm sao chúng ta có thể định trước được (Tây Phương có phép tính xác xuất). Làm sao chúng ta ảnh hưởng và thay đổi được nhân duyên để hướng về cái tốt đẹp hơn?

Đáp: Nếu nói bản thể của nhân duyên là sự biến chuyển cũng không hoàn toàn đúng. Ví dụ muốn có trái mít phải trồng hạt mít, mà ở sự tác ý đem trồng hạt mít, cái nhân duyên nầy nằm nơi A Lợi Da Thức của con người. Đó là tâm vương. Tâm là chủ của tất cả vạn pháp và pháp sẽ biến hóa vô cùng. Lối tính xác xuất là lối tính hữu hình, đem cái hữu hình để đo lường cái vô hình là điều khó thực hiện. Một ví dụ khác có thể hiểu được điều nầy như sau: Một hôm nọ có một người bạn đến rủ mình đi chơi; nhưng vì đã định đi Chùa trước, nên trả lời rằng: Hôm nay tôi không đi chơi với anh được. Vì tôi sẽ đi Chùa. Vậy thì cái gì làm cho mình không đi chơi và cái gì làm cho mình đi Chùa? Tất cả đều do tâm làm chủ và tâm sai khiến. Nếu chuyển tâm được thì cảnh sẽ chuyển được. Thông thường vì thiếu trí tuệ (chứ không phải thiếu thông minh) nên chúng ta để cảnh chuyển tâm; nên mới có kết quả trái ngược. Nếu tâm chuyển được cảnh thì đó là một xác xuất rất cần thiết và đứng đắn nhất để hướng về cái tốt đẹp hơn. Tất cả đều do mình làm chủ và do mình chịu trách nhiệm với việc làm của mình. Nhân duyên chỉ là một việc lệ thuộc bởi tâm; nếu tâm vững vàng thì nhân duyên sẽ thay đổi theo tâm và phải nương vào tâm để tồn tại và phát triển. Ác hay thiện, tà hay chánh, chơn hay ngụy, tốt hay xấu v.v... tất cả cũng đều do tâm mình tạo tác mà thành. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có câu: "Tất cả đều do tâm tạo" cũng từ ý nghĩa nầy.

Hỏi: Ai cũng có tâm Phật và có cơ hội thành Phật. Ở trong đời mạt pháp nầy đã có ai chứng thành Phật quả chưa?

Đáp: Đức Phật dạy rằng: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì vậy, ai cũng có thể thành Phật. Thời gian lâu hay mau lệ thuộc nơi sự hành trì của chúng sanh đó. Thời chánh pháp vì có Phật ra đời nên đã có nhiều người chứng quả A La Hán, hoặc Bồ Tát; nhưng thời mạt pháp cũng không phải là không có, chỉ ít hơn thời chánh pháp và tượng pháp thôi. Ví dụ Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng chẳng hạn. Ngài là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, chứng đạo ngay trong cuộc sống nầy và còn nhiều vị hiển thánh khác nữa; nhưng những vị nầy ít xuất hiện, nên chúng ta không thấy, chứ không phải là không có.

Ở Việt Nam có Hòa Thượng Quảng Đức, sau khi thiêu xác, quả tim vẫn còn, mặc dầu lửa đốt đến 4.000 độ tim vẫn không cháy. Đó không phải sự chứng đạo là gì. Hoặc giả hai vị Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường sau khi chết, nhục thân vẫn còn nguyên vẹn. Đã hơn 100 năm trôi qua; nhưng tư thế ngồi kiết già để thị tịch, quả là có một không hai trong thời kỳ mạt pháp nầy.

Nhân duyên là một yếu tố không kém phần quan trọng trong khi tu hành. Vì vậy cầu nguyện cho chướng duyên đừng đến trong khi phát tâm cầu đạo không phải là điều không cần thiết.

Hỏi: Khi hành giả niệm Phật, tọa thiền cần dụng công như thế nào cho đúng?

Đáp: Khi niệm Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm luôn nhớ nghĩ đến Phật, cố gắng đừng cho gián đoạn, niệm thành tiếng hay niệm thầm cũng được; nhưng điều cốt yếu là phải rõ ràng, thành tâm và tự chủ. Pháp môn niệm Phật rất cần thiết cho người sống cũng như kẻ mất. Vì thế chư Phật, chư Bồ Tát và chư Thánh Tăng đều phát nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Tọa thiền cũng cần có chánh niệm. Muốn chánh niệm được liên tục phải cần quán sát hơi thở cho đến khi thuần thục. Không nên cho gián đoạn sự suy niệm về hơi thở về vô thường, khổ, không và vô ngã. Tất cả những phép quán nầy sẽ làm trợ duyên cho việc hành đạo. Thế ngồi phải ngay thẳng. Khi nào tâm tán loạn thì hãy buông xả, không nên cố gắng quá sức, đầu óc sẽ bấn loạn và tâm mình không thanh tịnh thì không thể điều hòa thân cũng như tâm. Trong trạng thái như vậy nên nghỉ ngơi vẫn hơn.

Hỏi: Trong khi dụng công có phải nên gặp Phật diệt Phật, gặp ma diệt ma không?

Đáp: Ở giai đoạn đầu thường thấy những hôn trầm và tán loạn. Đây có thể gọi là ma chướng. Chúng ta nên loại trừ chúng ra khỏi tâm mình. Đây gọi là ma phiền não. Khi ngồi thiền được thuần thục, các cảnh giới khác hiện ra nơi tâm mình, cũng không nên chấp trước vào đó. Vì tất cả những cảnh nầy đều giả danh chứ không phải là thực tướng; nhưng vì thức chấp ngã cho rằng có thật; nên hành giả hay bị lầm là vậy. Vì thế, nói gặp Phật diệt Phật là vậy. Mà dẫu cho có gặp Phật trong khi ngồi thiền cũng nên buông xả đi. Vì lẽ ta chưa chứng đạo; nên những cảnh ấy không do trí tuệ mà có, chỉ do sự mơ ước được gặp Phật, nên có Phật mà thôi.

Hỏi: Khi trì chú có cần điều kiện gì không?

Đáp: Trì chú cũng là một công năng tu tập giúp hành giả định tâm được dễ dàng. Mặc dầu những thần chú, ý nghĩa chúng ta không hiểu biết; nhưng mỗi một vị Phật, một vị Bồ Tát có một mật hạnh khác nhau. Khi hành mật hạnh tức đã dung thông ba cõi; trong mật chú ấy đã đầy đủ sức gia trì. Công đức thật không nhỏ.

Khi trì chú tụng kinh thì nên ăn chay, việc trì chú tụng kinh mới hiệu nghiệm hơn như trong kinh Địa Tạng đã dạy. Ngày thường không phải là rằm hay mồng một cũng có thể trì chú tụng kinh được, tuy nhiên phước báu không bằng những ngày ăn chay, cữ ngũ vị tân và không ăn thịt của chúng sanh.

Hỏi: Sự khác biệt giữa trí tuệ và trí huệ cũng như trí huệ bát nhã như thế nào? Xin cho thí dụ.

Đáp: Nếu viết chữ Hán thì chữ trí tuệ và trí huệ giống nhau và ý nghĩa cũng không có gì khác nhau cả. Vì âm tiếng Việt có hai cách đọc là tuệ và huệ nên có nhiều người nghĩ rằng nghĩa khác, chứ thật ra không khác. Chữ trí tuệ bát nhã ghép chung như vậy không đúng. Chữ bát nhã dịch từ tiếng Phạn Pjragna cũng có nghĩa là trí tuệ. Có thể nói Pjragna riêng biệt với chữ trí tuệ và hai từ nầy không cần đi chung nhau. Vì như thế sẽ trở thành điệp ngữ.

Muốn tu chứng trí tuệ phải giữ giới và thiền định. Có giữ giới thì tâm mới an tịnh và có thiền định thì tâm mới lắng sâu xuống để gạn lọc những phiền não của cuộc đời. Người có trí tuệ không phải là người thông minh, mà là người biết được nguồn gốc của sự khổ đau và phương pháp diệt khổ để đi đến sự an lạc tự tại. Nếu ai biết nhận chân ra giá trị đó, tức người có trí tuệ.

Hỏi: Sự khác biệt giữa tâm đối với thân theo nghĩa trong kinh và tánh đối với tướng như thế nào?

Đáp: Tâm tượng trưng cho tinh thần không có hình tướng; thân tượng trưng cho vật chất, sắc trần, có hình tướng, trông thấy và sờ mó được. Tánh là chiều sâu thẳm của tâm, là căn nguyên của thiện và ác. Tướng là mặt nổi của tâm; những gì tánh móng động thì tâm sẽ sanh khởi. Ví dụ như phiền não chẳng hạn. Những gì thể hiện nơi hành động vui, buồn, giận hờn, thương ghét v.v... tất cả đều bắt nguồn từ tánh rồi chuyển qua tâm để nổi lên bên trên, do đó ta có thể cảm nhận được những sự thể ấy.

Tâm và thân, tánh và tướng nương nhau mà tồn tại như hình với bóng. Nếu cái nầy thay đổi thì cái kia cũng bị ảnh hưởng, và ngược lại cũng thế, cả ảnh hưởng xấu lẫn ảnh hưởng tốt. Sự luân hồi sanh tử từ đây mà phát sanh rồi chuyển qua nghiệp để đi đầu thai trong vạn nẻo đường trần.

Hỏi: Phát tâm thành Phật đạo và nguyện độ chúng sanh là hai hay là một thực thể?

Đáp: Sự phát tâm để thành Phật là căn bản của sự tu hành; nhưng nguyện trở về cõi Ta Bà để độ sanh hay không là do tâm nguyện của Bồ Tát hạnh. Nếu là A La Hán thì các vị nầy chỉ muốn chứng nhập Vô Dư Niết Bàn rồi ở mãi trong cảnh tịch diệt ấy, chứ không rời bỏ chánh niệm. Chỉ những vị Bồ Tát, nếu có phát nguyện độ sanh, chính quý vị nầy sẽ đầu thai trở lại để cứu khổ muôn loài. Điều nầy không bắt buộc. Tùy theo hạnh nguyện của mỗi người mà thành.

Hỏi: Phát tâm và nguyện để thành Phật và "tu bất cầu đắc", hai câu nầy có trái nghĩa hay không?

Đáp: Khi còn đau khổ thì con người muốn giải thoát khỏi sự phiền não. Nhưng khi đã được giải thoát rồi thì cầu chứng đắc cũng bằng thừa; nên câu nầy có nghĩa là khuyên nhắc chúng ta phải mau đổi hướng để lên bờ giải thoát vậy. Nếu chưa giải thoát thì chắc chắn vòng luân hồi vẫn còn kiểm soát tâm thức của mình. Đúng ra tu thì khôngcầu chứng. Đây cũng là tinh thần của Kim Cang và Bát Nhã. Vì đã dụng công ắt có ngày sẽ thành công. Quả vị ấy tự nhiên đến chứ không cần cầu. Nhưng sự cầu ở đây có nghĩa là cầu giải thoát, chứ không phải cầu lợi lạc về phương diện vật chất riêng tư cho mình thì không có lỗi lầm gì cả.

Hỏi: Dưỡng tâm như dại là tuyệt xảo

Học tới như ngu mới diệu kỳ.

Đây có phải là tiếng không của tâm linh không?

Đáp: Đây là hai câu đối để định nghĩa về sự dại và ngu trong cuộc đời. Chữ dại ở câu trên không có nghĩa là dại khờ, mà dại ở đây có nghĩa là hoàn hảo và chữ ngu ở câu dưới cũng không phải là người không có trí, mà chữ ngu nầy có nghĩa là không còn biết gì nữa, gần giống như chữ vô học nơi ý nghĩa của A La Hán vậy.

Đức Phật cũng thường hay dạy rằng: Người trí mà biết mình là trí, kẻ ấy là kẻ ngu. Người ngu biết mình ngu thì kẻ ấy mới thật là trí.

Hai câu trên nói về sự đối đãi của tâm và sự học hỏi trong cuộc sống; chứ chưa thoát ra khỏi sự chấp có và chấp không; nên chưa thể hiện trọn vẹn tinh thần không của Bát Nhã. Không của Bát Nhã là không nương vào hình tướng cũng như âm thanh và màu sắc để có được tất cả những diệu dụng của chơn tâm.

Hỏi: Hai nhóm từ: "phản quan tự kỷ" và "trở về chân tâm" có khác nghĩa nhau không? Nếu khác thì khác ở điểm nào?

Đáp: Nếu giải thích từng chữ một theo nghĩa tiếng Việt thì như sau: Chữ phản có nghĩa là trở lại, quan là xem, thấy, nhìn; tự kỷ là chính mình. Câu nầy dịch chung có nghĩa là là "nhìn ngược lại chính mình". Còn câu trở về chân tâm cũng có nghĩa là trở về với chính mình vậy. Con đường đến Đạo Phật là con đường trở về với chính mình. Nếu mình không làm chủ được mình thì sự tu học chưa dụng công đầy đủ. Nếu chỉ đi tìm cầu phía bên ngoài và nội tâm thì không lo kiểm soát bởi chính mình thì sự tu học ấy thiếu đi chiều sâu và sẽ không đạt đến kết quả.

Hỏi: Chúa Giê-Su có nói với con chiên của Ngài rằng: "Các con hãy yêu thương Chúa và người khác như chính yêu thương mình vậy". Từ "yêu thương" của Chúa Giê-Su nói có khác với từ "từ bi" của Đạo Phật không? Nếu khác thì khác ở điểm nào?

Đáp: Đạo Chúa có chữ "bác ái". Đạo Phật có chữ "từ bi". Chữ "bác" có nghĩa là rộng khắp, "ái" có nghĩa là yêu thương. Chữ "từ" có nghĩa là lòng nhân của con người, "bi" có nghĩa là vì tình thương mà cứu giúp. So ra hai chữ vẫn có sự khác biệt. Tuy nhiên việc hành trì lệ thuộc vào mỗi động tác của công việc thì đúng hơn. Ví dụ Chúa vì chuộc tội cho nhân sinh nên chịu đóng đinh. Phật vì cứu khổ cho chúng sanh; nên đã xả bỏ tất cả những gì riêng tư của chính mình để đi tìm đường cứu khổ.

Tất cả mọi danh từ đều có tính cách đối đãi với nhau. Điều quan trọng nơi đây là hành động thể hiện việc làm ấy, chứ không phải hình thức rao nói việc làm.

Hỏi: Trong Đạo Phật tại sao rất nghiêm khắc đối với những người không giữ đúng giới luật? Nhưng trong pháp môn niệm Phật thì cho rằng dầu tốt hay xấu, khi lâm chung nếu nhứt tâm niệm sẽ được Đức Phật trợ niệm vãng sanh. Sự khác biệt giữa hai việc nầy ra sao?

Đáp: Giới được dịch là biệt giải thoát, là hàng rào ngăn cản tội lỗi. Nếu ai giữ trọn các giới cấm thì tư cách của người đó trang nghiêm thanh tịnh, sẽ được lợi lạc cả tâm linh lẫn hình tướng. Nhưng nếu giữ không tròn, tự người đó chịu lỗi, chứ người khác không chịu thay cho mình. Vì vậy sự sám hối cần phải thể hiện nhiều hơn khi có lỗi, chứ không phải bị trừng phạt bởi một ai cả, ngoại trừ chính mình.

Đức Phật A Di Đà là tha lực. Ngài sẽ dìu chúng ta vào cõi bất sanh, bất diệt. Nhưng khi vào đó rồi thì phải tự tu thì hòn đá nghiệp kia mới tan đi từ từ cũng giống như tội lỗi của mình phải tự sám hối vậy. Tuyệt nhiên Đức Phật A Di Đà sẽ không làm cho mình hết tội, ngoại trừ chính mình phải tự tu. Chỉ một điều duy nhất được lợi lạc là, khi sanh về thế giới Cực Lạc không còn bị tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử nữa. Điều ấy đã minh xác được qua lời nguyện của chư Phật để chúng ta vững lòng mà tu tiếp vậy.

Hỏi: Một người thường đi Chùa, lạy Phật, ăn chay, làm công quả Chùa, ai nhìn vào cũng nói người đó là một Phật Tử thuần thành. Nhưng khi học giáo lý thì không tham dự, không đọc kinh sách, không nghe băng giảng. Khi xúc sự ồn náo thô tháo, chấp chặt. Xin định nghĩa rõ, thế nào là một Phật Tử thuần thành, đúng nghĩa. Thân, miệng, ý cần hợp nhất hay không?

Đáp: Mỗi chúng sanh đi vào đời nầy bằng một loại nghiệp khác nhau. Lành, dữ, thiện, ác đều có sai khác. Vì do chúng sanh đã tạo ra trong nhiều đời nhiều kiếp, trong hiện tại chỉ là kết quả của những gì đã tạo ra trong quá khứ, nên quả của chúng sanh trong kiếp nầy cũng không đồng nhau. Vì thế Đức Phật có chế ra 5 giới cho người tại gia. Nếu ai giữ tròn 5 giới thì đời nầy và đời sau luôn luôn được mọi người kính trọng, thân trang nghiêm, tướng lưỡi rộng dài, hay nói ra những lời chân thật và được mọi người tin cẩn. Nếu ai không giữ tròn được 5 giới, đương nhiên có chỗ khiếm khuyết, do đó không được sự hộ trì của chư thiên, hộ pháp và ngay cả loài người. Một người có quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới được gọi là một người Phật Tử chân chính. Điều nầy khác với một Phật Tử thuần thành. Người nầy cũng có thể đã quy y mà cũng có thể chưa quy y. Người nầy hay đi Chùa làm phước, làm công quả v.v... biết rõ giáo lý căn bản của Đạo Phật.

Có những người chỉ ham tu phước như cúng dường xây chùa, hộ trì Tăng Ni tu học v.v... nhưng ít tham gia những buổi thuyết pháp hoặc nghe kinh giảng, vì điều kiện gia đình của họ không đủ thì giờ chẳng hạn. Vì vậy cũng không nên trách họ, vì họ chưa có điều kiện đó thôi. Nếu chỉ tu phước thì đời sau sẽ hưởng được phước còn huệ thì không. Vì vậy chư Tổ vẫn thường hay khuyên là nên có đầy đủ phước huệ song tu là vậy.

Cũng có người chỉ tu huệ; ngược lại khi nhờ làm phước việc gì đó thì không làm mà còn chê bai, coi thường v.v... cả hai thái độ ấy đều không phải là một người Phật Tử thuần thành. Vậy là Phật Tử phải cần nên giữ thân khẩu ý cho thanh tịnh học hỏi kinh luật luận, để khi hữu sự xảy đến, nên áp dụng đúng theo lời Phật dạy thì công đức của người ấy không nhỏ. Chúng ta cũng không nên thấy người khác làm hoặc không làm mà sinh thối tâm. Việc nầy lệ thuộc nơi mỗi cá nhân và chính mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm việc của mình làm và không ai chịu thay cho ai được cả.

Hỏi: Trong kinh Phật dạy: "ba nghiệp hằng thanh tịnh". Tức ba nghiệp thân khẩu và ý. Nhưng thanh tịnh như thế nào? Xin giải cho biết về sự thanh tịnh của từng nghiệp.

Đáp: Chúng sanh sanh ra trong đời mạt pháp nầy phước mỏng mà nghiệp dày, tội nhiều mà phước ít, chướng nhiều mà huệ mỏng. Vì thế, tu hành trong thời mạt pháp nầy để gạn lọc thân tâm không phải là điều đơn thuần. Nhưng cũng không phải là không có người làm được.

Chữ thanh tịnh ở đây có nghĩa là gạn lọc. Cũng giống như gạn đục khơi trong vậy. Thân, khẩu, ý chúng ta cũng giống như một ly nước vậy. Làm cho ly nước đục thì dễ; nhưng làm cho ly nước trong phải cần dụng công thật tinh vi. Nhưng nước trong cũng không có nghĩa là không còn bụi bặm nữa. Bụi nằm ngay dưới đáy ly, hay ở tận cùng nơi tâm thức, chờ ngày tâm mình chao đảo thì bụi kia lại nổi lên lại. Do đó, muốn sự thanh tịnh được dài lâu vĩnh cửu thì phải dụng công bằng 4 phương pháp: tụng kinh, trì chú, tọa thiền và lễ bái. Đây là 4 chất xúc tác lớn để làm cho tâm được thanh tịnh và 4 chất nầy là những tia phóng xạ cực mạnh, đẩy lui đi tất cả những bụi bặm đóng dưới đáy ly kia, hay nói khác hơn là làm tiêu trừ phiền não, ma chướng tham sân si để giới định huệ được bừng sáng dậy. Ăn thua nơi dụng công, nếu sự dụng công triệt để thì nghiệp nào dầu lâu đời lâu kiếp có căn sâu từ trong vô lượng kiếp vẫn có thể cắt đứt được như thường. Điều quan trọng nằm ở tâm ta, chứ không nằm phía bên ngoài.

Hỏi: Trong tương lai Phật Giáo Việt Nam sẽ như thế nào?

Đáp: Câu hỏi nầy phải chia ra làm hai phần để trả lời. Một phần ở trong nước và một phần ở ngoại quốc.

Phần trong nước: Sau hơn 20 năm người Cộng Sản nắm quyền (1975-1996) mọi sự tự do Tôn Giáo đều bị cấm đoán, cũng giống như trường hợp của Tây Tạng, chính quyền chỉ cho Phật Giáo hay các Tôn Giáo khác do chính quyền lập ra hoạt động dưới sự kiểm soát của nhà nước và quyền quyết định sinh hoạt, diễn giảng v.v... đều thuộc về nhà nước chứ không thuộc về Giáo Hội. Về mặt chính trị lúc nào cũng có hai phía để đương đầu: một bên tuyên truyền và một bên phản tuyên truyền. Bên nào cũng có lợi mà bên nào cũng có hại cả. So ra trên mặt nổi, Phật Giáo vẫn còn tồn tại; nhưng đi sâu về vấn đề phát triển thì tại Việt Nam trong hiện tại chiều sâu không có, chỉ duy trì vấn đề lễ bái là nhiều. Tuy có một vài Phật Học Viện vẫn được mở cửa, tiếp nhận Tăng sinh; nhưng cả một nước Việt Nam mà không có hơn 10 trường Đại Học Phật Giáo thì quả là điều khiêm tốn vô cùng. Tuy nhiên người Cộng Sản cũng không thể nào tiêu diệt được niềm tin của quần chúng Phật Tử đối với Phật Giáo nói riêng hay các Tôn Giáo khác nói chung. Họ chờ ngày tự do, sẽ phát triển lại, giống như người Phật Tử miền Bắc đã chịu đựng mấy mươi năm nay, bây giờ họ bắt đầu thể hiện tinh thần học Phật bằng nhiều phương diện khác nhau.

Còn Giáo Hội truyền thống tuy bị trù dập, đàn áp, khống chế, bắt bớ, giam cầm; nhưng với những vị lãnh đạo, đây chỉ là chướng duyên như bao chướng duyên khác trong cuộc sống cần phải đấu tranh và chống đỡ lại và chờ ngày đẹp trời sẽ có cơ phục hoạt.

Đối với Phật Giáo Việt Nam tại ngoại quốc ngày nay, càng ngày sự học Phật của người Phật Tử càng tiến bộ hơn. Với 2 triệu người hiện có mặt khắp nơi trên thế giới, đa số là Phật Tử, với sự hiện diện của hơn 400 ngôi Chùa và 400 Tăng Ni hiện hành đạo khắp đó đây là một gia bảo rất lớn cho những thế hệ đi sau, họ sẽ kế tục để thừa hành những công việc của những thế hệ đi trước đã làm. Có một số Phật Học Viện, Tu Viện đã và đang đào tạo các Tăng Ni sinh nề nếp, sống đời đạo hạnh, lo tu học và phục vụ con người trên nhiều bình diện văn hóa, xã hội từ thiện, triết học v.v... Đây là một niềm vui và từ đó người Phật Tử Việt Nam cũng như người ngoại quốc sẽ có thêm phần lợi lạc về vấn đề tinh thần.

20 năm trong một thế kỷ là ngắn; nhưng với 1.000 hay 2.000 năm sau nữa, đây là bước căn bản để mang Đạo vào Đời cho các thế hệ mai sau. Nếu nền tảng nầy vững chắc thì các lâu đài sẽ được xây dựng trong nay mai trên nền móng tâm linh ấy sẽ được phát triển không ngừng nghỉ. Đây là một điều rất quan trọng và cần thiết cho Cư sĩ tại gia lẫn người xuất gia.

Hỏi: Theo tinh thần Đại Thừa, chúng sanh phát bồ đề tâm, lập nguyện thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh. Còn theo tinh thần Tiểu Thừa có phải chúng sanh cũng phải phát tâm, lập nguyện dứt đoạn các phiền não cầu giải thoát, chúng ta có được dùng chữ phát bồ đề tâm để chỉ cho tinh thần Tiểu Thừa hay không?

Đáp: Chữ Bồ Đề Tâm dịch sát nghĩa là tâm giác ngộ. Chữ giác ngộ gồm có 3 nghĩa là tự mình giác ngộ cho mình, sau khi được giác ngộ rồi, đem sự giác ngộ ấy cho chúng sanh. Điều này gọi là giác tha. Nếu muốn tiến lên quả vị Phật Bồ Tát của Đại Thừa phải phát tâm dõng mãnh hơn nữa, khi nào làm tròn hai công hạnh tự giác và giác tha thì quả vị mới tròn đầy. Đây gọi là phát đại thừa tâm để cầu thành Phật quả.

Tiểu Thừa khác với Nguyên Thủy Phật Giáo, xin đừng hiểu lầm. Tiếng Sanscrit gọi Tiểu Thừa là Hynayana, mà Nguyên Thủy gọi là Theravada. Tiểu Thừa Giáo vẫn cầu giác ngộ; nhưng đa phần các vị A La Hán của Thánh quả nầy khi đã chứng nhận được địa vị vô sanh rồi, thường hay ở luôn nơi Niết Bàn và ít có phát nguyện trở lại Ta Bà để độ sanh. Do đó phát bồ đề tâm của Đại và Tiểu Thừa có sự khác biệt nhau như thế.

---o0o---


Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/03/2023(Xem: 5918)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
03/02/2023(Xem: 5227)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 5907)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5023)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 12887)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 17745)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13301)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 11897)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 5952)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8311)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567