Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công nghệ, con đường dễ dàng của sự cám dỗ.

09/06/202308:15(Xem: 3403)
Công nghệ, con đường dễ dàng của sự cám dỗ.


Công nghệ, con đường dễ dàng của sự cám dỗ.

Công nghệ, con đường dễ dàng của sự cám dỗ.

(The Temptation of an Easy Path in Technology)

 

 

Bộ phim Phi Thuyền Serenity (2005) với thể loại khoa học viễn tưởng đã giới thiệu một hình ảnh tên là Miranda, nơi các vấn đề của nhân loại được giải quyết thông quan  khoa học công nghệ. Tham lam, giận dữ, si mê (tam độc), phiền não bởi buồn bã, lo lắng và tuyệt vọng - rõ ràng là trùng lặp với một số kiết sử cổ điển của Phật giáo (Skt., Pali: samyojana) - tất cả đều bị loại bỏ trong một thí nghiệm của chính phủ độc tài giám sát hành tinh. Chính phủ, được gọi là “Liên minh”, đã làm mát dịu người dân về mặt hóa học bằng cách thêm vào một loại thuốc trong bầu khí quyển. Tuy nhiên, khi phát hiện ra các nhân vật chính trên con tàu vũ trụ Serenity, đã trở nên tồi tệ: hàng ngày mọi người trở nên ngoan ngoãn đến mức họ ngừng tất cả hoạt động. Thay vì sống thanh thản hồn nhiên và không tham lam, họ trút hơi thở nhẹ nhàng thanh thản trên giường, nằm trên trường kỷ hoặc ngồi trên bàn làm việc. Họ chỉ đơn giản là bỏ ăn và uống, không muốn tiếp tục.

 


Áp phích năng lượng hạt nhân của Trung Quốc những năm 1950
Hình 1: Áp phích năng lượng hạt nhân của Trung Quốc những năm 1950. Ảnh: darkroastedblend.com

Trò chơi trong câu chuyện lâu đời là cuộc tìm kiếm về một xã hội không tưởng. Đặc vụ của Liên minh, người dẫn đầu thí nghiệm nói với chúng tôi rằng anh ấy đã nghĩ mình có thể tạo ra một thế giới hoàn hảo. Mel Medarda là một nhân vật được xây dựng một cách có đầu tư vào sâu sắc, nhưng Mel, nhân vật chính của  chúng ta, tin rằng chính những sai sót đó đã tạo nên con người của chúng ta. Một phương diện, chúng ta có thể nghĩ rằng niềm hạnh phúc là không có sự tham lam và ghét bỏ. Rốt cuộc, những điều này là chìa khóa dẫn đến sự bất hạnh của chúng ta. Phương diện khác, Mel cũng đang làm một điều gì đó – nhấn mạnh rằng sự không hoàn hảo của chúng ta là quan trọng.

 




Vụ nổ khi thử nghiệm hạt nhân
Hình 2: Vụ nổ khi thử nghiệm hạt nhân. Ảnh: wire.com

 

Như trước đây chúng ta đã thảo luận qua cách nhìn của tờ The Buddhist Door, công nghệ mới như ChaGPT đang thay đổi thế giới nhanh chóng mà chúng ta đang sống. Tuy nhiên, công nghệ mới này cũng phản ánh cuộc tìm kiếm lâu đời của chúng ta về những tiện ích có thể giúp giảm bớt những nỗi khổ niềm đau và mang niềm hạnh phúc đến chúng ta. Điều này do công nghệ hoạt đông như một phần mở rộng của thế giới nội tâm của chúng ta. 

 

Tám mươi năm trước, công nghệ mới táo bạo và đáng sợ là năng lượng hạt nhân. Khi chứng kiến vụ nổ hạt nhân đầu tiên vào ngày 16 tháng 7 năm 1945, ‘Cha đẻ bom nguyên tử’ Giáo sư Robert Oppenheimer, nhà vật lý, người lãnh đạo chương trình vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ với tư cách là Giám đốc Phòng thí nghiệm Los Alamos, kiến trúc sư chính của quả bom hạt nhân đầu tiên, đã trích dẫn câu nói nổi tiếng trong “Bhagavad Gita”, một cuộc đối thoại giữa Krishna và Arjuna diễn ra trên chiến trường Kurukshetra chỉ trước khi trận chiến bùng nổ: “Bây giờ tôi đã trở thành Tử thần, kẻ hủy diệt thế giới.” (Wired)

 

Thực tế đáng sợ của năng lượng hạt nhân có nghĩa là chẳng bao lâu nữa, một số ít các quốc gia hùng cường sẽ nắm trong tay sức mạnh hủy diệt thế giới. Đồng thời, nếu được khai thác đúng cách, năng lượng hạt nhân nói chung là một lợi ích to lớn cho nhân loại, tạo ra nguồn năng lượng dồi dào mà hầu như không phát thải khí nhà kính. Trên thực tế, đối với một số người, năng lượng hạt nhân giống như một con đường dễ dàng để trở nên giàu có. Lewis Strauss chủ tịch Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ (U.S. AEC) gọi đây là “một minh chứng xúc động rằng nguyên tử thực sự có thể bị tước bỏ vỏ bọc quân sự và thích ứng với nghệ thuật hòa bình.” (The Guardian)

 


Tom Cars-Next Year of Nevee!
Hình 3: Tom Cars-Next Year of Nevee! Ảnh: darkroastedblend.com

 

Gần đây hơn, chúng ta đã chứng kiến sức mạnh kép của mạng xã hội thể hiện trên trường quốc tế. Ban đầu hứa hẹn những con đường kết nối mới và giao tiếp cởi mở, chúng tôi háo hức tham gia các trang mạng xã hội lớn để chia sẻ, học hỏi và hỗ trợ. Nhưng không mất nhiều thời gian để những người có quyền lực lưu ý đến điều này và bắt đầu kiểm soát các phương tiện truyền thông xã hội. Ngay sau đó, ngày càng rõ ràng rằng chính những người có quyền lực trong mạng rất vui khi gây ảnh hưởng và thao túng người dùng.

 

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi ChatGPT và các chatbot AI khác sẽ trở thành sở hữu sức mạnh kép: tiềm năng mang đến lợi ích to lớn cho một số người và gây tổn thất lớn cho những người khác.

 

Quay trở lại câu hỏi của Giáo sư Đại học California tại Berkeley, Robert Oppenheimer (1904-1967), nhà vật lý lý thuyết người Mỹ, vào thời điểm đó thật đáng để suy ngẫm về việc ông chuyển hướng sang triết học Ấn Độ. Trong Sử thi Mahabharata Bhagavad Gita, hoàng tử chiến binh Arjuna bị giằng xé bởi một tình thế tiến thoái lưỡng nan: lâm vào trong một trận chiến vĩ đại như nghĩa vụ của một chiến binh, hoặc tạm dừng, khi biết rằng bạn bè và người thân đang ở trong quân đội đối lập. Trong câu chuyện, Krishna, vị thần chủ chốt trong Ấn Độ giáo xuất hiện trước Arjuna, một nhân vật trung tâm của sử thi Ấn Độ cổ đại Mahabharata và giải thích rằng ở mức độ sâu của thực tế, sẽ không có sinh vật nào bị giết trong trận chiến, vì cuối cùng tất cả đều là linh hồn vĩnh cửu (Skt.: atman). Vì thế, nhiệm vụ của ông ấy là tiến lên hoàn thành Pháp (Dharma) – hay nghĩa vụ - của mình với tư cách là một chiến binh.

 

Trong những lời dạy của Gita và những gì từ đó được gọi là Ấn Độ giáo, nghĩa vụ của một người được xác định bởi sự ra đời. Điều tốt nhất mà một người thường có thể làm là tuân theo bổn phận của mình với hy vọng được tái sinh tốt hơn và cuối cùng, nhận ra sự hợp nhất của mình với “Đấng Sáng tạo” (Brahma). Đây không phải là một con đường dễ dàng, và việc Giáo sư Robert Oppenheimer chỉ ra cho thấy rằng ông biết rõ sự sáng tạo của mình phải trả giá đắt.

 

Con đường của Đức Phật là con đường gian nan, hoặc ít nhất là con đường đòi hỏi sự tu tập, kiên nhẫn và tinh tấn. Trong buổi diễn thuyết trước công chúng năm 2013 với chủ đề “Theo đuổi hạnh phúc: Con đường Phật giáo”, tại Đại học Hồng Kông, Giáo sư Yakupitiyage Karunadasa, học giả người Sri Lanka về Nghiên cứu Phật học đã phát biểu: “Quan điểm của Phật giáo là có mối liên hệ không thể tách rời giữa đạo đức và hạnh phúc: điều gì hoàn hảo về phương diện đạo đức sẽ dẫn đến niềm an lạc hạnh phúc. Điều gì xấu ác bất nhân vô đạo đức dẫn đến bất hạnh.” (Urban Dharma)

 

Quan trọng hơn điều này, Giáo sư Yakupitiyage Karunadasa khuyến khích chúng ta, là sự khác biệt trong con đường giữa một bên là cố gắng thay đổi thế giới để phù hợp với mong muốn của chúng ta và bên kia là nỗ lực thay đổi bản thân để hòa hợp với thế giới. Lựa chọn thứ hai khó hơn và đây là lựa chọn là giáo lý đạo Phật.

 

Những thao tác đối với thế giới xung quanh của chúng ta liên tục hứa hẹn một con đường dễ dàng. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi chúng ta gặp phải những nhược điểm đắt giá của mỗi phát minh hoặc thiết bị mới.

 

Do đó, những nỗ lực của chúng ta nên tập trung vào công việc gian khó trong việc rèn luyện nội tâm – điều phục tâm. Như trong Kinh Pháp Cú dạy rằng:

 

The mind is very hard to check

and swift, it falls on what it wants.

The training of the mind is good,

a mind so tamed brings happiness.

 

Dịch:

 

Khó nắm giữ, khinh động,

Theo các dục quay cuồng.

Lành thay, điều phục tâm;

Tâm điều, an lạc đến.

(Buddha Dharma Education Association)

 

Một trong những kiết sử khác, không thường được đề cập hoặc thảo luận trong các bản văn hoặc giáo lý của Giáo Pháp, là sự nghi ngờ—tức là sự nghi ngờ về con đường của Đức Phật. Khi chúng ta coi hành trình tìm kiếm hạnh phúc của chính mình trong thế giới luôn luôn mới này để thu hút sự chú ý của chúng ta, thì điều đáng lưu ý là lời cảnh báo của Giáo sư Karunadasa: con đường đạt được bên ngoài và thỏa mãn niềm vui không thể không đưa chúng ta ra khỏi con đường của nội tâm. chiêm niệm và bình an. Trong chừng mực chúng ta có sự lựa chọn ở đây, trong từng khoảnh khắc, chúng ta cũng có cơ hội trong từng phút giây. Khi chúng ta thấy tác động của những tâm thức kém thuần hóa trên tin tức hàng ngày, chúng ta có thể thấy chân lý của những lời dạy của Đức Phật và sự cấp bách mà chúng ta có thể cảm thấy khi tuân theo chúng.

 

Việt dịch: Thích Vân Phong

Nguồn: Buddhistdoor Global

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2012(Xem: 4751)
Áp lực do học tại trường chuyên cũng là nguyên nhân làm cho một số học sinh trở nên căng thẳng với chính mình và ứng xử lạt quẻ. Khicăng thẳng quá mà kết quả học tập kém hơn chúng bạn có thể làm cho một số cháu rơi vào mặc cảm thua sút và chán nản...
09/10/2011(Xem: 12519)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
01/08/2011(Xem: 4484)
Tuổi trẻ thế hệ Tiền Chiến (trước 1945) đi ghe chèo, xe ngựa. Tuổi trẻ thế hệ 1950 đi ghe máy đuôi tôm, xe đạp. Tuổi trẻ thời 1960 đi đò máy dầu cặn, xe mô tô 2 bánh. Tuổi trẻ thời 1980 đi tàu thủy, ô tô. Tuổi trẻ thời nay đi tàu cao tốc, máy bay. Đấy là một bức tranh khá sống động minh họa cho tốc độ chuyển biến của quá trình phát triển khoa học kỹ thuật. Trong đó, tuổi trẻ là lực lượng nhiệt tình và năng nỗ nhất.
08/07/2011(Xem: 4571)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạn và chuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
04/07/2011(Xem: 9530)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
01/07/2011(Xem: 2703)
Tuổi thanh niên là tuổi hi vọng ước mơ, bao giờ cũng nuôi sẵn trong lòng những mộng đẹp. Nhờ sự hi vọng ước mơ ấy, thanh niên mới phát triển hết khả năng để đạt được sở nguyện. Thế mà, nghe đạo Phật đề cập đến vấn đề diệt dục, thật là một việc cằn cỗi khô khan, không thích hợp chút nào với tuổi đang tràn trề nhựa sống, theo quan niệm của họ. Do đó, đa số thanh niên chỉ đứng xa nhìn đạo Phật, thấy như mình không có liên hệ gì với cái đạo già cỗi ấy.
23/06/2011(Xem: 16884)
BỘ SÁCH PHẬT HỌC ỨNG DỤNG Hồng Quang sưu tầm và biên soạn Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011 GIỚI THIỆU BỘ SÁCH "PHẬT HỌC ỨNG DỤNG" Nguyên Định MỤC LỤC TỔNG QUÁT Cuốn 1: Nghi lễ, Thiền và Tịnh độ Cuốn 2: Giáo lý căn bản Cuốn 3: Bước đầu học đạo Cuốn 4: Bảy tôn giáo ngoài Phật giáo Cuốn 5: Áp dụng lời Phật dạy vào cuộc sống Cuốn 6: Dưỡng sinh Cuốn 7: Khoa học và Phật giáo Cuốn 8: Những vấn đề kiếp sau Cuốn 9: Đạo Phật trong vùng ruộng lúa Cuốn 10: Nghệ thuật diễn giảng và tầm quan trọng của văn nghệ.
22/06/2011(Xem: 2615)
Hiện nay, người Việt ở hải ngoại đã qua ba thế hệ, họ sớm hòa nhập với xã hội công nghiệp, nhất là tuổi trẻ thuộc thế hệ thứ ba. Vấn đề tôn giáo đối với thế hệ nầy gần giống như cư dân bản địa, còn chút gì chăng là do tính huyết thống của ông bà cha mẹ lưu truyền.
30/05/2011(Xem: 21588)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
18/02/2011(Xem: 5158)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]