Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôn Giáo trên thềm thế kỷ 21.

09/04/201317:28(Xem: 4456)
Tôn Giáo trên thềm thế kỷ 21.


Tôn Giáo trên thềm thế kỷ 21

Triều Nguyên

---o0o---

Đứng trên thềm năm mới, thường người ta mong ước một tương lai tươi đẹp, nhưng cũng thoáng nỗi lo gặp chuyện không may, và chắc hẳn ý tưởng kép này càng lộ rõ trước ngưỡng cửa bước vào một thế kỷ mới .

Điều đáng nói hiện nay là mặc dù tiến bộ đến mức "gần như thần thông" khoa học kỹ thuật không chỉ đánh mất niềm tin, mà còn gây lo ngại cho hầu hết loài người . Run sợ trước cảnh thiên tai dồn dập, vũ khí giết người hàng loạt dễ tạo, dễ tìm, và bệnh tật lan tràn khắp nơi, càng ngày càng có nhiều người chuyển niềm mong hạnh phúc qua đường hướng khác, đó là tôn giáo .Theo nghiên cứu của các nhà xã hội học, trong hai thập niên qua đã có sự "phục hưng của tôn giáo" trên toàn thế giới . Việc mở mang các trung tâm thờ phượng(đền, chùa, nhà thờ) và sự gia tăng số lượng tín đồ diễn ra không chỉ ở nước ta, một nước đang phát triển, mà cả tại Hoa Kỳ, một nước tiêu biểu cho nền văn minh khoa học kỹ thuật .

Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ cũng như ở nhiều nước khác, cảnh phục hưng này lại mang màu khác trước với sự cải cách của các dòng tôn giáo chính thống và sự ra đời của nhiều tổ chức tôn giáo mới .Trong quyển "Bách khoa tự điển các tôn giáo Mỹ", người biên tập chính ước tính giữa năm 1987 và 1989 đã có tới 400 giáo phái được thành lập ; còn hai tác giả của quyển "Các xu thế mới năm 2000" cho biết : "Trong khi ở trung tâm những nhóm chính là Thiên Chuá giáo, Tin Lành và Do Thái giáo bị thu hẹp lại, thì hàng trăm giáo hội nhỏ và phân tán mang nhãn hiệu Mỹ thuộc chính thống lẫn cải cách đã phát triển mạnh . Tiêu biểu có hàng chục tổ chức tôn giáo mới, giáo phái hoặc nhóm thờ phượng, ra đời mỗi năm ; nhưng gần đây con số tổ chức đó tăng lên hàng trăm và rồi tăng gấp đôi số đó".

Các tài liệu cũng ghi nhận người Mỹ đang có khuynh hướng tìm theo các tôn giáo phương Đông và năm 1990 đã có bốn phần trăm dân số Mỹ là tín đồ Phật giáo, Hồi giáo hoặc Ấn Độ giáo .

Điểm đặc biệt của tiến trình phục hưng tôn giáo trong mấy năm qua là sự xuất hiện của những "đạo sư" có khả năng thuyết phục quần chúng . Những người này có thể thực thụ hoặc tự xưng thuộc các tôn giáo chính thống, là đồng tử trung gian hoặc hoá thân của một vị giáo chủ như Đức Phật, Đức Chúa, v.v.. hoặc có thể chỉ là một bậc hướng dẫn tâm linh trong phong trào "thời đại mới". Tất cả đều hứa hẹn"đưa tín đồ tiếp cận một chân lý hoặc thực thể siêu việt và bước vào cõi hạnh phúc vĩnh hằng", nhưng phần đông lại đưa ra những phương pháp hành trì "quái dị" thí dụ như tự tử tập thể, tung chất độc giết người hoặc dấn thân vào cảnh đồi trụy . Đương nhiên cũng có những đạo sư truyền dạy con đường tốt lành giúp người theo có được thân tâm an lạc trong cuộc sống .

Dù sao, trước tình trạng bùng phát của niềm tin tôn giáo, một câu hỏi đã được nêu ra :"Tại sao như thế?" Theo giới nghiên cứu, tình trạng này có hai nguyên nhân chính : một mang tính tất yếu và một mang tính phỏng định .

Nguyên nhân tất yếu, như đã nói ở phần đầu, là sự mất niềm tin vào khoa học kỹ thuật . Tiến sĩ Harvey Coxta ở Hoa Kỳ nhận định : sự phục hưng của tôn giáo là một hiện tượng toàn cầu đánh dấu sự cáo chung của thứ niềm tin cho rằng khoa học sẽ khắc phục mọi vấn đề của con người . Niềm tin khoa học đó đã sinh ra cuộc cách mạng công nghiệp, đã nêu bật sức mạnh của kỹ thuật . Khi được dùng vào mục đích phục vụ nhân sinh, khoa học kỹ thuật cống hiến cho loài người những năng lực gần như thần thánh . Tiếp nối sự công nghiệp hoá là "lý tưởng tiến bộ" với khái niệm cho rằng những tiến bộ khoa học sẽ "luôn luôn" làm cho cuộc sống tiến lên tốt đẹp hơn . Đồng thời, theo lời phát biểu của giáo sư Emaritus Daniel Bell ở trường đại học Harvard, mọi nhà tư tưởng thuộc phong trào Aùnh sáng duy lý từ thế kỷ XVIII đều nghĩ rằng tôn giáo sẽ biến mất trong thế kỷ XX vì tôn giáo là mê tín vật linh .

Tuy nhiên, thực tế không như người ta tưởng vì những biến cố xảy ra trong thế kỷ XX cho thấy khoa học kỹ thuật có thể tạo ra địa ngục và nguy cơ hủy diệt thế giớị Thêm vào đó, đời sống công nghiệp biến con người thành những mắt xích luôn luôn chuyển động và tăng tốc trong một bộ máy được lập sẵn chương trình, điều này đã gây ra sự căng thẳng và khủng hoảng tâm lý . Bởi vậy, sau những kinh nghiệm đớn đau như thế, con người thấy cần tìm lại giá trị mỹ cảm của tinh thần, và tôn giáo thì đề cao cái giá trị đó . Tất nhiên, như người bệnh nặng thích liều thuốc mạnh, niềm tin tôn giáo trong thời gian qua được đẩy tới chỗ "cuồng tín, thoát ly hẳn thực tế". Nhưng đến nay, nhận ra sự cuồng tín đó cũng có thể đưa thế giới đến chỗ rối loạn, người ta lại hướng về những con đường tôn giáo dung hợp "đạo và đời","thần tính và nhân tính", thí dụ như phương pháp tu hành do các vị Thiền sư Phật giáo đang truyền bá ở Âu Mỹ .

Nguyên nhân thứ hai của hiện tượng bùng phát tôn giáo, nhất là những giáo phái "quái dị", là sự hấp dẫn của lời tiên đoán "tận thế" dựa theo lý thuyết thiên niên kỷ . Được mô tả trong sách Khải Huyền của Thiên Chúa giáo,thiên niên kỷ là thời kỳ 1000 năm tính theo dương lịch (lịch Thiên Chúa giaó) khởi đầu bằng những biến động hủy diệt thế giới và Đức Chúa sẽ tái hiện để đưa các tín đồ thuần chính bước vào cõi lạc . Người ta cũng tìm thấy quan niệm tương tự trong những tôn giáo khác, thí dụ như Đạo Phật với lý thuyết "thời kỳ mạt pháp và Đức Phật Di Lặc thị hiện".

Đến nay, với năm 2000 khởi đầu một thiên niên kỷ mới, những xôn xao về "ngày tận thế" đã lắng dịu, nhưng âm hưởng vẫn còn trước những mối nguy chưa được giải quyết . Dù sao, như một nhà báo phương Tây nhận định sự tái hiện của mỹ cảm tâm linh biểu lộ trong phong trào phục hưng tôn giáo là dấu hiệu của niềm hy vọng lớn về một cuộc sống tốt đẹp hơn . Chẳng biết loài người có được cứu vớt nhờ một đấng cứu thế từ trời giáng xuống bằng phép mầu (theo kinh sách cổ truyền) hoặc bằng tàu vũ trụ (theo kiểu hiện đại) hay không, nhưng điều kiện tiên quyết vẫn phải xuất phát từ bản thân của mỗi người; và đây chính là chủ trương của các tôn giaó, trong đó có đạo Phật .Đức Phật dạy :"Chính ta làm cho ta ô nhiễm, chính ta làm cho ta trong sạch . Nếu ta nói hay làm với tâm ác thì sự đau khổ sẽ theo ta như bánh xe lăn theo dấu chân con bò kéo xe .

Nếu ta nói hay làm với tâm trong sạch, hạnh phúc sẽ theo ta như bóng theo hình". Ngài còn dạy :"Phước báo và tội lỗi mà con người tạo ra là tất cả những gì con người làm chủ, là những gì đưa con người đã là những gì luôn luôn chạy theo bén gót con ngườỉ Vậy, từ đây con ngừơi hãy tích trữ cái tốt để đem đi nơi khác trong tương lai . Hãy tạo một nền tảng vững chắc cho thế gian mai sau".

Tham khảo :

- Đức Phật và Phật pháp của ĐĐ Narada Thera, bản dịch của Phạm Kim Khánh
-Các xu thế lớn năm 2000 của J.Naisbitt và P.Aburdene

---o0o---


Trình bày: Nhị Tường

Source: Nguyệt san Giác Ngộ số 45

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2016(Xem: 24648)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13420)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15730)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31797)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15133)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11626)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
26/01/2016(Xem: 12349)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
15/12/2015(Xem: 6626)
Yêu thương hay thù oán không chỉ là tình riêng cuả mỗi con người mà còn là một cảm xúc chính trị. Đã có nhiều thí dụ cho thấy là các hiệu ứng của cảm xúc này lan toả đến hệ thống pháp luật, mà đòi công lý hay tự thiêu của dân oan tại Việt Nam là trường hợp phổ biến. Thực ra, trong bất cứ một nền tảng công lý nào thì điểm chính yếu cũng là phải tìm ra một hệ thống luật pháp công minh và tinh thần trọng pháp của người dân và chính quyền để áp dụng trong thực tế.
09/12/2015(Xem: 7260)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
03/12/2015(Xem: 27355)
Đức Phật lịch sử tuyên bố trên internet rằng: "Như Lai không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Như Lai mà thôi. Những gì người trí chấp nhận, Như Lai chấp nhận." Sư Triệu Châu mang bát gậy dạo khắp các tùng lâm và tự khuyên mình như sau: 七歲童兒勝我者、我即問伊。百歲老翁不及我者、我即教他。Trẻ con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy va."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567