Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

PHẬT GIÁO VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI

01/03/201223:07(Xem: 3105)
PHẬT GIÁO VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI
MỤC LỤC
TẠP CHÍ ĐẠO PHẬT NGÀY NAY SỐ 14
THÁNG 02 NĂM 2012
PHẬT GIÁO VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI
TT. Thích Nhật Từ

thumbnail.php?file=006___PGCNBD___PG_Va_Tinh_Hien_Dai__R__1_728042267Nếu đạo Phật được xem là một tôn giáo, thì đó là một tôn giáokhoa học, tôn giáo nhân bản, tôn giáo minh triết hay một tôn giáo hiện đại. Trong bài viết này, tôi không nhấn mạnh đến bản chất của tính hiện đại trong đạo Phật, mà chỉ nhằm phác họa vài ý kiến về các ứng dụng tínhhiện đại của đạo Phật trong cuộc sống.

1. Phật giáo, toàn cầu hóa và tính hiện đại

"Toàn cầu hóa" (globalization) trong bốicảnh đa văn hóa không còn đơn thuần là sự kiện mà đã trở thành “một tiến trình,” mà tính tất yếu của nó đã trở thành vòng xoay của thiên niên kỷ thứ 3. Toàn cầu hóa đã tác động lên mọi phương diện của cuộc sống hiện đại từ triết học, chính trị, văn hóa, tôn giáo v.v…

Khi nói về hiện đại, người ta thường nghĩ đến “toàn cầu hóa” và “hội nhập.” Khi hội nhập đã trở thành tiến trình tương tác thì toàn cầu hóa xuất hiện như một quy luật có tầm ảnh hưởng đa chiều. Hội nhập tạo ra hai chiều vào và ra, tiếp thu các giá trị tích cực mang tính hiện đại, đồng thời quảng bá các giá trị dân tộc vốn có với thế giới xung quanh.

Các khám phá và phát minh của khoa học hiện đại đã trở thành nguồn thách thức các giá trị về niềm tin chân lý trong các tôn giáo nhất thần và đa thần. Trong khi đó, trước cơn lốc toàn cầu hóa, vị thế của đạo Phật lại được nâng lên hơn bao giờ hết, nhưtriết gia Krishnamurti phát biểu: “Có thể tìm thấy Phật giáo ở những nơi không có đạo Phật”.

Các trào lưu hiện đại (modernism) một mặt mang lại các giá trị về tính hiện đại (modernity) thúc đẩy các thay đổi về xã hội, mặt khác mang theo các trận cuồng phong và những cú sốc về văn hóa (culture shock) đến khắp mọi nơi. Dù tính hiện đại là cần thiết cho mọi sự phát triển, nhưng sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu tính hiện đại được “mê tín hóa” như cán cân chân lý vĩnh hằng, buộc mọi giá trị truyền thống, trong đó có giá trị tôn giáo, cần tuân thủ và xoayquanh.

Khi xem tính hiện đại là thươc đo chân lý, các nhà hiện đại sẽ trở thành những con người độc tôn và trong chừngmực nào nó, họ trở nên hẹp hòi không kém gì những nhà tôn giáo bảo thủ.Thách đố về thước đo chân lý đã làm cho nhiều nhà tôn giáo kháng cự tính hiện đại vì xem nó như vật chướng ngại. Khi lý tính độc tôn được sửdụng như công cụ tiếp cận chân lý, chân lý được lên ngôi đó không có giá trị hiện thực khách quan và do vậy không thể ngự trị trên ngai vàng của hiện thực.

Nếu toàn cầu hóa, thế tục hóa và dân chủhóa đang trở thành hiện tượng phổ biến ở phương Tây, thì các giáo hội cơ chế truyền thống thuộc nhất thần giáo đang gặp phải nhiều khó khăn vàthách đố. Tại nhiều nước phương Tây, phong trào thế tục hóa và dân chủ hóa đã kéo theo sự đóng cửa của nhiều nhà thờ và cơ sở tôn giáo, mở ra phong trào tâm linh hóa tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo, nhằm giúp con người có thêm tự do trải nghiệm các giá trị tâm linh thuần túy.

Phật giáo không thuộc nhóm tôn giáo nhấtthần hay đa thần, không bị tính hiện đại thách đố như các tôn giáo khác. Phật giáo không phải đối chọi với tính hiện đại của chủ nghĩa hiệnđại, vì Phật giáo có thể thích ứng và đồng hành với nó dễ dàng từ bản chất học thuyết đến thực tiễn hành trì.

Phật giáo có lối đi riêng, mà theo đức Phật, đặc điểm lời dạy của ngài là “thiết thực hiện tại” (sandiṭṭhiko), “siêu việt thời gian” (akāliko) và có khả năng hướng thượng (opanayiko) con người. Thiết thực hiện tại chính là tính hiện đại. Siêu việt thời gian cũng chính là hậu hiện đại. Ở tính hiện đại, Phật giáo phục vụ nhânsinh ở thì hiện tại. Ở tính hậu hiện đại, Phật giáo tiếp tục phục vụ con người ở thì tương lai. Vì phục vụ nhân sinh chính là tinh hoa minh triết của Phật giáo, nhằm giúp con người giải phóng nỗi khổ niềm đau, hướng về mục đích an lạc và hạnh phúc. Đây chính là những đặc điểm tạo nên Phật giáo (opanayiko).

2. Phật giáo và tính khoa học

Các vấn đề thế giới quan, thuyết tương đối, vật lý lượng tử, thuyết big bang, thuyết tiến hoá và nhiều vấn đề quan trọng khác của khoa học được trình bày khá lý thú trong nhiều tác phẩm Phật học hiện đại khác nhau. Các nghiên cứu so sánh giữa Phật giáovà khoa học về các lãnh vực vũ trụ học, vật lý nguyên tử, vạn vật học, đã giúp cho giới Phật giáo hiểu sâu hơn về các phương diện khoa học đượcđề cập trong kinh. Đồng thời, giúp cho giới khoa học có cơ hội khám phákinh điển Phật giáo nhằm phát hiện và ứng dụng các tư duy khoa học của đức Phật. Cả hai phương diện đều góp phần tháo mở các niềm tin mê tín (như các dây tầm gửi vốn có gốc rễ từ các tôn giáo bản địa), ra khỏi thân cây bồ đề của đạo Phật.

Mục đích của Phật giáo không nhằm đánh đồng Phật giáo với khoa học, vì khoa học chỉ là một phương diện mà Phật học sử dụng để minh chứng về thế giới hiện thực, chứ chưa phải là tổng thể Phật giáo. Các nhà Phật học hiện đại cũng không có dụng ý chứng minhkhoa học là Phật giáo, vì khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng và mụcđích cứu cánh của nó là khám phá thế giới, không nhằm giải quyết nỗi khổ niềm đau của con người, như khoa học tâm thức của Phật giáo.

Điểm tương đồng giữa khoa học và Phật giáo là mục đích tìm hiểu chân lý. Phương pháp luận và giá trị đạt đến chân lý của khoa học và Phật giáo không hẳn giống nhau, mặc dầu có thể bổ sung cho nhau. Đóng góp chính của khoa học là tìm hiểu và khám phá chân lý và đây chính cũng là giới hạn của nó. Lịch sử khám phá của khoa học cho thấy chân lý khoa học là tương đối, và trong nhiều tình huống, chúng được thay thế bằng những phát hiện và định luật mới khả tín hơn. Chân lý Phật giáo tuy dựa vào thế giới hiện thực nhưng nhằm vào giải quyết các vấn nạn của kiếp người, có khuynh hướng ứng dụng vào nhận thứcluận (epistemo-logy) và đạo đức học (ethics) hơn là bản thể luận (ontology).

3. Phật giáo và chủ nghĩa dân tộc

Việc nhầm lẫn hiện đại với phương Tây sẽdẫn đến các hậu quả chấp nhận tất cả những gì có gốc rễ từ nước ngoài đều là tốt. Tính hiện đại thường là tính phổ quát, đang khi phương Tây hóa, hay phương Đông hóa chỉ là một hiện tượng của toàn cầu hóa, mà giá trị của nó chỉ được xác định trong từng bối cảnh cụ thể. Nếu thế giới phương Tây có khuynh hướng phát triển về đời sống vật dục thì Phật giáo nhấn mạnh đến sự tu dưỡng nhân cách và tâm linh. Do đó, để đưa đất nước theo hướng phát triển bền vững, tính hiện đại cần phải song hành với tính dân tộc, để tránh tình trạng mất gốc các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập.

Mặc dù tính hiện đại là cần thiết cho các phát triển, nhưng phát triển theo hướng hiện đại hóa mà bỏ rơi các giá trị truyền thống của dân tộc chỉ là sự tự kết liễu những gì đặc thù mà các dân tộc khác không có. Nếu hiện đại hóa là một hành trình đầy thửthách thì tính hiện đại tích cực sẽ có thể trở thành sự lựa chọn tốt đối với các mối quan tâm mà con người cần có. Trong quá trình hội nhập để có được tính hiện đại, chúng ta đâu cần phải loại trừ các tính đặc thù, cá biệt của dân tộc bao gồm các giá trị nhân văn vốn tạo nên chất lượng đời sống. Để tính hiện đại trở thành một lựa chọn tích cực cho mọigiới, cần loại bỏ đẳng thức sai lầm rằng hiện đại được hiểu là kỹ thuật, máy móc, văn hóa giải trí. Đang khi tính hiện đại trong một xã hội là giá trị cần có, việc mất gốc truyền thống sẽ làm ta đánh mất các giá trị văn hóa lâu đời.

Trong các đất nước có nhiều giá trị văn hóa truyền thống lâu đời như Việt Nam, chính sách mở cửa cho “hiện đại hóa” một cách vũ bão mà thiếu sự chắt lọc sẽ dễ dẫn đến tình trạng tiếp nhận những cái mới mà không phải cái nào cũng là tính hiện đại có giá trị thì các di sản văn hóa dân tộc có cơ hội bị thay thế hoặc loại bỏ theo thời gian.

Bất cứ nơi nào Phật giáo được truyền vào, tồn tại và phát triển, trong quá trình dựng nước và giữ nước, Phật giáo luôn cổ xúy chủ nghĩa dân tộc (nationalism). Chủ trương này càng được thể hiện rõ nét trong các quốc gia bị thực dân xâm lược. Phật giáo đã đồng hành với dân tộc với lời kêu gọi nhập thế (engaged) vào các phương diện chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa và giáo dục. Chủ nghĩa nhập thế Phật giáo (engaged Buddhism) đã trở thành khuynh hướng phát triển đạo Phật trên toàn cầu. Thiền sư Nhất Hạnh là người có công giới thiệu đạo Phật nhập thế của Việt Nam cho thế giới phương Tây thời hiện đại, góp phần tạo ra một đạo Phật có nhiều tính hiện đại.

Xây dựng một đạo Phật trong lòng dân tộclà chủ trương của đức Phật. Tính đồng hành giữa Phật giáo và dân tộc đãtrở thành lối ứng xử đậm đà bản sắc dân tộc của đạo Phật. Nếu hiện đại hóa dân tộc là nhu cầu để tiếp thu những cái tiến bộ thì dân tộc hóa hiện đại là một quá trình giới thiệu những giá trị đặc thù của dân tộc ta ra thế giới, để thế giới có thể cảm nhận và hội nhập. Do đó, tính dântộc và tính hiện đại một mặt thể hiện sự đồng hành giữa truyền thống vàhiện đại, mặt khác được xem như tính đặc trưng của một đất nước tiến bộ. Hội nhập thế giới thường bắt đầu từ giao lưu, tương tác và cộng hưởng các giá trị của nhau. Mỗi dân tộc thông qua hội nhập sẽ đóng góp cho thế giới tinh hoa và bản sắc văn hóa của mình, ngược lại có thể tiếpthu những di sản chung của nhân loại. Tình trạng “ngăn sông cấm chợ” làvật cản của hội nhập và toàn cầu hóa. Các giá trị hiện đại do trở ngại này không thể mở rộng biên cương lan tỏa của mình.

Để tính hiện đại được tiếp nhận thì quá trình hiện đại hóa không được tách rời khỏi dân tộc tính. Nhiều giá trị của dân tộc tính chẳng hạn sự đoàn kết quốc gia trong thời chiến cũng như thời bình đã trở thành nguồn lực bảo vệ độc lập và chủ quyền của đấtnước, mà còn góp phần không nhỏ vào việc phát triển đất nước theo hướnghiện đại và bền vững.

4. Phật giáo và trách nhiệm đạo đức

Theođức Phật, mục đích của đời sống không phải là hưởng thụ mà là sống tốt,sống lành mạnh, sống đạo đức, sống văn hóa và sống tâm linh để thấy được các giá trị tích cực của kiếp người. Đạo Phật có mặt là vì con người, phục vụ con người và giải quyết các vấn nạn con người. Để mang lại kết quả hòa bình và phát triển, theo đức Phật, đạo đức cá nhân và xãhội cần phải được tôn trọng tuyệt đối.

Hành vi thiện trên động cơ thiện được xem là mối quan tâm hàng đầu đối với đạo đức Phật dạy. Dù là các loài động vật hay thực vật, lòng từ bi, khoan dung chính trị và tôn giáo đượcxem là điểm son trong giáo pháp Phật mà con người cần phải áp dụng và ứng xử với nhau. Nương tựa tự thân, thực tập thiền định có khả năng chuyển hóa phiền não, giúp con người phát triển trí tuệ, nhờ đó từ bỏ mọi sự rắc rối và nghiệp chướng. Đây chính là nghệ thuật “sống theo chánh pháp”.

Người làm chủ mình và nhân quả sẽ là nhàquy hoạch cuộc đời mình, vị kiến trúc sư khôn ngoan về cấu trúc tâm lý,nhận thức và hành vi cuộc sống, và là người kế thừa trực hệ gia tài năng lực hành vi đã được tích tập một cách có ý thức. Nhận thức quy luậtnhân quả chi phối các nguyên lý từ vô cơ, hữu cơ cho đến tâm lý học, nhận thức luận, đời sống luân lý xã hội và ngay cả đời sống tâm linh củacon người, hành giả Phật giáo sẽ là người làm chủ bản thân mình bằng các nỗ lực chuyển hoá quán tính hành vi ngày càng tốt đẹp hơn, để vượt thoát khỏi mọi xiềng xích của nghiệp đã tác tạo. Nhờ hiểu nhân quả, con người có trách nhiệm với các hành vi đạo đức và ứng xử của bản thân, nhờđó, không tạo ra các ảnh hưởng tiêu cực cho tha nhân, góp phần mang lạian lạc và hạnh phúc cho con người.

Phật giáo kêu gọi các ý thức trách nhiệmvề hành vi đạo đức bản thân, gia đình, xã hội, cộng đồng, quốc gia và toàn thế giới. Không ai có thể tránh khỏi quả báo của một hành động đã đến lúc chín mùi, vấn đề là sự tùy thuộc vào các yếu tố thời gian và điều kiện. Một thông điệp khác là kêu gọi tinh thần nhân bản, tương thântương ái, lánh dữ làm lành, phụng sự tha nhân trong các cảnh huống bất hạnh và khổ đau là đáng và nên thực hiện bằng tấm lòng vô ngã và vị tha.Niềm tin về kiếp sau có năng lực khai sáng các hành động đạo đức và nhân đạo của chúng ta ở kiếp này.

Khi thấy rõ tái sinh lá có thật mỗi người trong chúng ta hãy sống trọn vẹn ý nghĩa của kiếp người, để hưởng được chất lượng phước báo và hạnh phúc của kiếp người, để mỗi khi nghĩ vế quá khứ khi cần thiết, ta có thêm niềm hãnh diện, hoặc mỗi khi nghĩ về tương lai ta có thêm niềm tự tin đi tới, hoặc đang khi ở hiện tại, tasống hết mình bằng trí tuệ, đạo đức nghề nghiệp, năng lực và tính tráchnhiệm. Quan niệm và sống như thế sẽ làm cho kiếp sống này trở nên có ý nghĩa và giá trị hơn.

Qua vài điều trình bày trên, ta thấy chủtrương “lấy con người làm trung tâm” của đạo Phật là một chủ nghĩa nhậpthế theo đúng nghĩa của từ này. Do đó, triết lý đạo Phật là nhằm phục vụ con người, hướng con người đến mục đích an vui và hạnh phúc. Vì lời Phật dạy mang tính “thiết thực hiện tại” và giá trị đạo đức và xã hội của đạo Phật là “siêu việt thời gian”, chủ trương nhập thế của Phật giáomang dấu ấn thời đại (tính hiện đại) trong bối cảnh đồng hành với dân tộc nói riêng và nhân loại nói chung. Các giáo hội Phật giáo trên toàn cầu, dù theo pháp môn nào, trong các bối cảnh văn hóa khác nhau, đều phụng sự cho nhân loại trong thời đại hôm nay và mai sau, nhằm góp phần mang lại một thế giới hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững.


(Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay số 14)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2016(Xem: 24694)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13435)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15757)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31843)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15150)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11641)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
26/01/2016(Xem: 12363)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
15/12/2015(Xem: 6629)
Yêu thương hay thù oán không chỉ là tình riêng cuả mỗi con người mà còn là một cảm xúc chính trị. Đã có nhiều thí dụ cho thấy là các hiệu ứng của cảm xúc này lan toả đến hệ thống pháp luật, mà đòi công lý hay tự thiêu của dân oan tại Việt Nam là trường hợp phổ biến. Thực ra, trong bất cứ một nền tảng công lý nào thì điểm chính yếu cũng là phải tìm ra một hệ thống luật pháp công minh và tinh thần trọng pháp của người dân và chính quyền để áp dụng trong thực tế.
09/12/2015(Xem: 7267)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
03/12/2015(Xem: 27367)
Đức Phật lịch sử tuyên bố trên internet rằng: "Như Lai không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Như Lai mà thôi. Những gì người trí chấp nhận, Như Lai chấp nhận." Sư Triệu Châu mang bát gậy dạo khắp các tùng lâm và tự khuyên mình như sau: 七歲童兒勝我者、我即問伊。百歲老翁不及我者、我即教他。Trẻ con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy va."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567