Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổ Sư Bất Như Mật Đa thứ 26 (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm trình pháp)

28/09/202011:22(Xem: 16666)
Tổ Sư Bất Như Mật Đa thứ 26 (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm trình pháp)



26_TT Thich Nguyen Tang_To Bat Nhu Mat Da



Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay, 28/9/2020, SP giảng về Tổ thứ 26 PG Ấn Độ, Ngài Bất Như Mật Đa.

Tổ Bất Như Mật Đa là một thái tử , con vua Đức Thắng, ngài thông minh và hiền lương , theo ông nội, mộ Phật pháp, được Tổ thứ 25 Bà Xá Tư Đa nhận làm đệ tử xuất gia tu học, về sau ấn chứng truyền thừa, trở thành Tổ thứ 26.

Tổ Bất Như Mật Đa dẫn đồ chúng đến miền Đông Ấn Độ để giáo hóa, đến nơi vào yết kiến vua Kiên Cố.


Tổ trình với vua là muốn đem pháp Phật để độ cho chúng sanh theo phương châm “tùy bệnh dữ dược”, tức là “tùy theo bệnh trạng mà cho thuốc”, chúng sanh đa bệnh, Phật Pháp đa phương, Phật Pháp phổ độ trên thế gian này tuyệt vời ở điểm này, con rất thích, vì con là 1 dược sĩ, con hiểu được tính năng của thuốc, người dược sĩ phải uyển chuyển và tùy duyên khi cho cung cấp cho bệnh nhân.


Vua hỏi Pháp Phật có hàng phục được yêu thuật hay không? Vì vua sợ ngài không thắng nổi.


Tổ trả lời một cách rất tự tại và tự tin rằng “ Phật pháp rất chơn chánh, dù thiên ma cũng hàng phục được, huống là yêu thuật mà không dám chống hay sao ?”

Ngoại đạo nghe lời này tức giận và dùng tà thuật hoá một quả núi đè trên đầu của Tổ.
Tổ dùng tay chỉ quả núi bay ngược lên đầu của nhóm ngoại đạo Phạm chí.


Vua và ngoại đạo khuất phục và xin cứu độ.

Bạch Sư Phụ, đoạn biểu diển tà thuật này rất ly kỳ và con rất thích thú, mới thấy là Pháp Phật thần thông diệu dụng bất khả tư nghì, không thể mô tả thành lời được.


Con ráng cố gắng tu để đạt được Tâm Phật kiên cố vững chắc ,thong dong tự tại đi khắp mười phương , độ cho cha mẹ, cho tất cả con cháu biết Phật pháp và tiếp tục hộ trì Phật pháp khắp nơi.


Con kính sám hối, con chưa được chút tâm chơn, vọng tưởng của con ở ngoài tầm tay.

Tổ thứ 26 Bất Như Mật Đa gặp một đồng tử An Lạc, cha mẹ mất sớm , đi xin ăn nhưng bản tánh can cường và thông tuệ nên mọi người yêu mến. Họ nói Anh Lạc họ gì, chú bảo là “ đồng một họ với mọi người”, đó là “ giác tánh”, họ giác ngộ, chữ tánh trong chữ Hán có nghĩa là “họ”, đây là cách chơi chữ và diệu nghĩa nằm dưới mặt chữ.

Sau đó chú Anh Lạc gặp Tổ Bất Như Mật Đa và ngài hỏi Anh Lạc có biết mình là ai không ? Anh Lạc thưa “Con nhớ xưa đồng trong pháp hội, Ngài giảng Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, con giảng Tu-Đa-La thậm thâm. Duyên xưa lại gặp, nên nay con mới cung đón ngài”.

Tổ cho biết chú Anh Lạc này vốn là hậu thân của Bồ Tát Đại Thế Chí ra đời để kế nghiệp, làm Tổ thứ 27, Tổ Bất Như Mật Đa.

Tổ thứ 26 Bất Như Mật Đa truyền ấn pháp cho Anh Lạc xuất gia và đặt pháp danh cho Anh Lạc là Bát Nhã Đa La (ghép tên của 2 người từ kiếp quá khứ) và ấn chứng cho ngài Bát Nhã-Đa La trở thành Tổ thứ 27.

Bạch Sư Phụ, mỗi vị Tổ ra đời đều hoằng dương Chánh Pháp của Phật trao truyền suốt 25 thế kỷ qua không gián đoạn .


Chánh Pháp chỉ có một vị duy nhất, đó là vị Giải Thoát, tuy cách mỗi vị Tổ diễn đạt có khác , nhưng tất cả đều đồng là Tâm Phật , chiếu sáng trong tất cả chúng sanh, vì Vô minh che mờ mà chúng sanh không nhận ra, nay gặp Phật, nghe học Chánh Pháp, chúng sanh đoạn trừ vô minh, tâm Phật sẽ lộ ra, hiện tiền bây giờ và tại đây.


Cuối buổi giảng, Sư Phụ diễn đọc bài thơ “Nghĩ về Corona” của Sư Cô Tường Vân rất hay:


"Dịch bịnh sẽ qua đi

Khi người nhiều từ bi

Bớt sát sanh hại vật

Giảm lòng tham sân si

Đừng tàn phá thiên nhiên

Để mọi loài bình yên

Bớt đi cảnh tang tóc

Nhân loại ít lụy phiền

Việc ác bỏ cho nhanh

Cố gắng làm điều lành

Tâm hồn luôn cao thượng

Giúp ích cho chúng sanh

Bá chủ đừng mộng mơ

Đạo đức chớ thờ ơ

Tâm tốt yên bờ cõi

Sống đẹp khỏi mong chờ".


Con kính tri ơn Sư Phụ mỗi ngày đem pháp Phật truyền giảng không ngừng nghỉ trong suốt mua đại dịch năm nay, giúp cho chúng đệ tử thêm tỏ tường Chánh Pháp .

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Cung kính
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(xem bài cùng tác giả)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2010(Xem: 7084)
Stephen William Hawking, sinh ngày 8 tháng Giêng năm 1942 là một nhà Vật lý Lý thuyết người Anh, đồng thời cũng là một nhà Vũ trụ học nỗi tiếng nhờ các tác phẩm khoa học và các lần ông xuất hiện trước quần chúng.. Ông là Hội viên Danh dự của Hội Nghệ thuật Hoàng gia Anh (Royal Society of Arts), Hội viên vĩnh viễn của Viện Khoa học Giáo hoàng (Pontifical Academy of Sciences) và vào năm 2009, được trao tặng Huy chương Tổng thống về Tự Do là huy chương dân sự cao quý nhất của Mỹ.
02/11/2010(Xem: 3220)
Những khám phá gần đây của nền Vật lý hiện đại cho thấy một số quan niệm của Phật giáo cần phải được xem xét đến… Kể từ thế kỷ 20...
02/11/2010(Xem: 3718)
Những thập niên cuối cùng vừa qua đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc của khoa học về toàn bộ cơ thể và bộ não con người. Xa hơn nữa, với sự phát triển những kiến thức mới về di truyền học, thần kinh học của những hoạt động của những cơ cấu của vi sinh vật bây giờ đang đến trình độ vững vàng ổn định nhất của những tế bào cá nhân.
29/10/2010(Xem: 3599)
Vô minh là một danh từ phát xuất từ Phật giáo. Dân gian ai đi chùa thì ít ra cũng quen thuộc với khái niệm “tham, sân, si”. Si mê hay vô minh nói lên một tâm trạng thiếu sáng suốt đưa đến những hành động tội lỗi trái luân lý. Khi học đạo, người ta nghĩ rằng vô minh chỉ là một khái niệm có lẽ nghiêng về luân lý (ethics) nhiều hơn là khoa học. Gần đây, khi khoa học và tâm lý học phát triển, người ta mới bắt đầu hiểu rằng vô minh có cơ sở khoa học.
26/10/2010(Xem: 3811)
Lời người dịch: Nguyên tác tiếng Anh của bài khảo cứu ngắn này: Darwinism, Buddhism and Christanityđược đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82, số 11 & 12, Nov - Dec 1974, trang 443 – 446 của Amarasiri Weeraratne, nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng ở Tích Lan.
23/10/2010(Xem: 3216)
Với cả hai quả quyết đã được trình bày, Darwin biết mình đã đi quá xa, không phải trên địa hạt khoa học, mà chính là trong trận địa triết lý: lý thuyết của ông sẽ bị kết án là duy vật chủ nghĩa.
23/10/2010(Xem: 10439)
Trước hết, có lẽ tôi cần phải thú nhận là không có cách nào tôi có thể trình bày đầy đủ về thuyết Tiến Hóa. Lý do chính là: Tiến Hóa là một quy luật thiên nhiên trong vũ trụ, và trong gần 150 năm nay đã được kiểm chứng, phát triển, từ đó giải thích được nhiều điều trong vũ trụ, thiên nhiên. Ngày nay, thuyết Tiến Hóa bao trùm rất nhiều bộ môn khoa học. Do đó, không ai có thể tự cho là mình biết hết về thuyết Tiến Hóa. Một khó khăn khác tôi vấp phải khi viết về thuyết Tiến Hóa là những danh từ chuyên môn mà tôi không đủ khả năng để dịch ra tiếng Việt hoặc không biết là đã được dịch ra tiếng Việt. Vì những lý do trên, trong bài khảo luận này, tôi chỉ tự hạn trong chủ đề
11/10/2010(Xem: 4638)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
10/10/2010(Xem: 7209)
Lẽ thường trong chúng ta, ai ai cũng đều có một cái “cái ngã”, hay “bản ngã”. Không những cái ngã của chính mình mà còn ôm đồm cái bản ngã của gia đình mình, của bằng hữu mình, của tập thể mình, của cộng đồng xã hội mình, của tôn giáo mình, của đất nước mình, và thậm chí cho đến cái bản ngã của chủ nghĩa mình; dù đó là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, hay chủ nghĩa hiện sinh...
07/10/2010(Xem: 3541)
Có thể nói không ngoa rằng lịch sử Phật giáo được khởi đi từ một giấc mơ, đó là giấc mơ “con voi trắng sáu ngà” nổi tiếng của Hoàng hậu Ma Gia. Giấc mơ này đã được ghi lại trong rất nhiều các kinh sách Phật giáo như Phổ Diệu Kinh (Lalitvistara), Phật Bản Hạnh Tập Kinh (Abiniskramanasutra), Phật Sở Hành Tán (Buddhacarita), Đại Sự (Mahavastu) và đặc biệt là trong bộ Nhân Duyên Truyện (Nidana Katha) được coi như là bộ tiểu sử chính thức về cuộc đời Đức Phật theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567