Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Tuyệt Vọng

04/01/201909:14(Xem: 11240)
27. Tuyệt Vọng

Tuyệt Vọng

(giọng đọc Hữu Châu)

 

Hy vọng có thể dễ dàng trở thành thất vọng, nhưng từ thất vọng đến tuyệt vọng là một khoảng cách rất lớn.

 

 

 

Lạc mất cái tôi

 

Sống trong đời sống thì phải có hy vọng. Tin vào ngày mai tốt đẹp hơn là phương cách rất cần thiết để cứu rỗi linh hồn ta vượt qua những cơn đau hụt hẫng, hay trước thực tại quá cay đắng, phũ phàng. Nhưng nếu ta đổ dồn hết năng lượng về một phía, cũng như ta đem hết tài sản của mình ra để đánh một canh bạc sau cùng, mà lỡ canh bạc ấy thất bại thì cuộc đời ta kể như không còn gì nữa để sống. Thật không có gì lạc lõng cho bằng khi ta không còn biết tin tưởng vào đâu. Đúng hơn là trái tim ta không đủ sức chứa đựng cảm xúc hụt hẫng quá lớn mà trước nay nó chưa từng xảy ra với ta, hay ta chưa hề chuẩn bị trước. Cái tôi vì không còn chỗ bám nên nó rơi vào khoảng trống chơi vơi, lạc lõng mà không định dạng được chính mình và mọi thứ xung quanh.

 

Khi tuyệt vọng, tâm trở nên lu mờ hơn bao giờ hết. Ta nhìn mọi thứ bằng con mắt bi quan, chán chường, có cảm tưởng như trên đời này không còn điều gì ý nghĩa và đáng tin tưởng nữa. Nhưng sự thật là đất trời vẫn đang ôm ấp ta, những người thân yêu vẫn luôn bảo bọc ta, những điều kiện thuận lợi vẫn đang tồn tại quanh ta. Chỉ vì tâm ta đang bị vướng kẹt vào một đối tượng hấp dẫn nào đó và vô tình tự đồng hóa cả đời sống của mình với đối tượng ấy. Nghĩa là trong khi đặt niềm tin vào ai đó, ta đã dễ dãi dồn hết năng lượng của mình về phía đối tượng ấy. Lối tin tưởng này đã khiến ta tự giới hạn hoặc chấm dứt sự liên kết cần thiết với những đối tượng xung quanh. Ta đã rơi vào thế mất cân đối ngay từ khi gửi niềm tin cho kẻ khác, nên lỡ đối tượng ấy tan biến thì đương nhiên ta cũng sụp đổ theo. Ta không còn chỗ để bám. Cái tôi dường như bị đánh cắp.

 

Ta quên rằng sự thất bại về danh vọng, tình yêu hay lý tưởng cũng chỉ là một phần của đời sống. Ta còn rất nhiều lý do để sống, để hy vọng. Hy vọng có thể dễ dàng trở thành thất vọng, nhưng từ thất vọng đến tuyệt vọng là một khoảng cách rất lớn. Không phải ai thất vọng cũng đều trở thành tuyệt vọng và không phải ai tuyệt vọng cũng đều chết chìm mãi trong khổ đau. Người có hiểu biết luôn xem thất bại là bài học kinh nghiệm để góp phần vươn tới thành công. Họ tin rằng những gì đã khổ công gầy dựng thì không bao giờ mất. Nó sẽ chuyển từ dạng này sang dạng khác, hoặc đang bảo lưu ở một dạng vô tướng nào đó để chờ đợi những yếu tố khác đến kết hợp. Nhờ có nội lực vững mạnh, nên họ luôn sẵn sàng chấp nhận tổn thất nặng nề mà không hề than van hay bỏ cuộc. Vì họ biết con người của mình vĩ đại hơn những gì chưa thể hiện được hoặc đã bị lấy đi. Điều quan trọng là họ chưa từng đem cuộc đời mình ra đặt cược hay rao bán.

 

 

 

Không biết đi về đâu

 

Thế nhưng, phần lớn mọi người khi rơi vào vực thẳm khổ đau tuyệt vọng đều muốn buông xuôi tất cả. Nếu ta có trong số đó thì hãy tự vấn mình: Thật ra ai đã khiến ta ra nông nổi này? Nếu ta đã xác định thủ phạm chính là người kia thì cũng nên tự hỏi thêm rằng: Người kia là ai mà có quyền thao túng cuộc đời ta dễ dàng như vậy? Họ chỉ có thể làm cho ta đau nhưng họ không có quyền làm cho ta khổ. Ta nên nhớ rằng thân mạng này không phải là của riêng ta nên ta không có quyền coi thường hay hủy hoại nó. Sự thật là cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những bậc ân nhân và cả tổ tiên hay giống nòi cũng đều đang có mặt trong từng tế bào và hơi thở của ta. Họ đang cùng ta đi về tương lai. Ta ngã xuống thì họ cũng sẽ ngã theo. Tương lai ta ra sao thì một phần họ cũng sẽ trở thành như thế ấy.

 

Dẫu biết rằng, khi chọn đến cái chết là ta đã chịu khổ đau đến mức cùng cực rồi; trái tim của ta như sắp tan vỡ vì không thể chịu nổi niềm đau quá lớn đang đè xuống. Nhưng suy cho cùng thì ta vẫn đang làm một quyết định rất ích kỷ. Ta chỉ muốn tìm cách trốn thoát cơn bão cảm xúc đang đè nặng bản thân mà chính ta cũng có phần trách nhiệm lớn trong ấy. Ta cứ tưởng rằng mình là kẻ khổ đau nhất trên đời, nên mọi người cần phải tôn trọng và không có quyền trách giận mình. Đúng là không ai nỡ trách giận một kẻ đang khổ. Nhưng ta không có quyền làm cho những người thân yêu của ta khổ chỉ vì ta đã bị kẻ khác làm cho mình khổ. Và liệu ta có yên vui nơi thế giới xa lạ nào đó khi tâm hồn ta vẫn còn đầy rẫy những oán hận chưa nguôi và trách nhiệm làm người vẫn còn dang dở?


Không có cái tương lai nào tách lìa với hiện tại cả, hiện tại như thế nào thì tương lai cũng đồng tính chất như thế ấy. Khổ đau từ trái tim thì liệu pháp chữa trị cũng từ trái tim. Ta đừng tiếp tục truy cứu kẻ đã làm khổ mình để đòi hỏi, trừng phạt, hay tìm một nơi mà mình cho là bình yên tuyệt đối để lẩn tránh. Dù có làm được chuyện ấy thì vết thương trong ta cũng không thể nào lành lặn được. Cách đó chỉ làm thỏa mãn cơn cảm xúc nhất thời, bởi ta không bao giờ lấy lại đầy đủ tất cả những gì đã mất. Hãy bình tâm nhìn kỹ lại. Nhiều khi ta không thoát khỏi vực thẳm khổ đau không phải vì ta không đủ sức, mà có thể vì ta đang muốn tự giam mình trong tình trạng thê thảm ấy để kích động lương tâm của người kia như một kiểu trừng phạt. Hoặc có thể vì ta muốn chìm đắm trong cảm xúc quặn đau ấy để tự thương hại bản thân mình. Người ta thường gọi đó là "thú đau thương".

 

Khi rơi vào cảm xúc khổ đau quá lớn, một kẻ vừa yếu đuối vừa chỉ biết lo nghĩ cho bản thân thì thường lấy đau thương để gặm nhấm rồi than thân trách phận, chứ không tích cực tìm lối thoát. Họ thích nằm co ro như con tôm để nghe những bản nhạc tình sầu đứt ruột. Hoặc họ thích người khác tưới tẩm vào nỗi khổ niềm đau của mình, bằng cách công nhận mình là kẻ khổ đau nhất trên đời và rất đáng tội nghiệp, chứ không chịu cho ai kéo mình ra khỏi vực thẳm đen tối ấy. Đó cũng là một dạng trầm cảm - thích giam cảm xúc ở cung bậc thấp để thỏa mãn mặc cảm thua sút. Thật ra, trong sâu thẳm thì đó cũng là cách để loan báo cho mọi người biết về cái khổ đau mà ta đang gánh chịu, nhưng lại muốn được xót thương hơn là cứu giúp. Muốn giúp ta, phải có khả năng đưa ta trở về đúng vị trí căng đầy niềm hy vọng như ban đầu thì ta mới thấy tự tin. Còn không, thà cứ để ta như vậy.

 

 

 

Rác cũng là hoa

 

Trong bài hát Tôi ơi đừng tuyệt vọng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đưa ra giải pháp chữa trị rất đúng: "Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh". Phải trải nghiệm nhiều lắm, phải đứng lên từ những khổ đau tuyệt vọng thì nhạc sĩ mới đúc kết được như thế. Trước đó, nhạc sĩ cũng đã khẳng định: "Em là tôi và tôi cũng là em". Em là tâm lý tuyệt vọng, là một biểu hiện nhất thời của cái tôi rộng lớn. Không thể cho rằng tuyệt vọng là toàn bộ con người của ta. Dù nó đang khống chế ta trong mọi suy tư và hành động, nhưng bản chất của nó vẫn là vô thường như mọi hiện tượng tâm lý khác. Sớm muộn gì nó cũng sẽ tan


biến thôi. Điều kỳ diệu là nhờ chuyến trôi dạt đến tận cùng miền đau khổ ấy mà ta khám phá ra được bản chất của mọi phiền não đều không có thật, và chúng cũng không hề có tên gọi gì cả. Chúng chỉ là những phản ứng chống trả nhất thời của cái tôi yếu đuối và còn thiếu hiểu biết về chính mình. Nhưng nhờ những phản ứng mạnh mẽ ấy, ta mới thấy rõ hết những yếu kém sâu sắc của mình mà kịp thời giúp đỡ và thay đổi cách sống. Có thể nói, nếu không có phiền não thì sẽ không bao giờ có sự giác ngộ; nếu không có em tuyệt vọng hôm qua thì sẽ không có tôi vững chãi hôm nay. Bởi em là tôi và tôi cũng chính là em.

 

Cũng giống như đem rác chuyển hóa thành phân hữu cơ để nuôi hoa, góp phần làm ra hoa. Hoa trở thành rác mà rác cũng có thể biến thành hoa. Thành ra, ranh giới giữa em tuyệt vọng và tôi cách nhau chỉ trong đường tơ sợi tóc. Khi lạc lõng thì em bé dễ hờn dễ khóc năm xưa trỗi dậy, nhưng chỉ cần sự tỉnh thức trở lại thì cái tôi vững chãi sẽ được gọi về. Ta muốn đời sống có bình minh, muốn vượt thoát cơn đau tuyệt vọng thì ta phải trở về làm mới tâm hồn mình, chứ đừng rượt đuổi theo kẻ khác để trừng phạt hay bám víu. Giải pháp hay nhất và duy nhất là phải "hồn nhiên" - sống được với con người chân thật vốn có của mình. Đó là con người chưa từng đón nhận những vai vế của cuộc đời, chưa từng biết che đậy hay trình diễn. Con người ấy nhìn đâu cũng bằng ánh mắt trong suốt như bé thơ, chứ không mang theo màu sắc pha tạp của những thành kiến và định kiến. Chỉ cần can đảm buông hết mọi tranh đấu, tạm thời lui về một không gian yên tĩnh và gần gũi với thiên nhiên, dành hết năng lực để chăm sóc lại từng dòng cảm xúc hay suy tư của mình, tiếp xúc thật sâu sắc với những gì đang hiện hữu bên mình bằng thái độ cởi mở và thương yêu thì em bé hồn nhiên sẽ từ từ hiện ra. Em bé ấy sẽ không còn thấy gì là tổn thương hay đau khổ nữa cả. Đó chính là tác phẩm hài hòa nhất của vũ trụ.

 

Ta hãy tin vào vô thường - mọi thứ rồi cũng sẽ đổi thay. Ta sẽ không còn tâm lý tuyệt vọng và người kia cũng sẽ không còn dại khờ mà làm cho ta khổ nữa. Bởi vì trong ta và người kia tuy có chất liệu rất "trần gian", nhưng cũng đôi khi lại thấy "yêu quá đời này".


 

 

Tạ ơn đời mầu nhiệm

Tạo duyên có rồi không

Hết không rồi lại có

Cho ngày mới đơm bông.
Đừng buồn nhìn xơ xác
Đời cần chút đổi thay
Hoa xưa rồi thắm lại
Vườn cũ ngát hương bay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12105)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14975)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11806)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16543)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
09/03/2021(Xem: 6149)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
29/11/2020(Xem: 12521)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7781)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19973)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
23/03/2020(Xem: 10284)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11826)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567