Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sách Tham Khảo & Chú Thích

17/12/201016:30(Xem: 12121)
Sách Tham Khảo & Chú Thích

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT
ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

Sách tham khảo

S.S le Dalai Lama,Comment pratiquer le Bouddhsme, dịch từ tiếng Anh do Yolande du Luard, Plon,2002, Pocket 2003.
- Sens de la vie:réincarnation et liberté, dịch từ tiếng Anh do Michel Cool và Pierre Lafforgue,J’ai lu 2000.
- Kindness,Clarity, and Insight, dịch từ tiếng Tây tạng do Jeffraey Hopkins, Ithaca, N.Y.Snow Lion Publication, 1984.
RINPOCHÉ Lati et JeffrayHOPKINS, La mort, l’État intermédiaire et la Renaissance dans le Bouddhismetibétain. Dharma, 1997.

TSONGKHAPA, Le GrandLivre de la progression vers l’Éveil, vol. 1, Dharma, 1997.

LEKDEN, KENSUR,Compassion et vacuité: méditation d’un supérieur de collège tantrique pratiquede la vacuité, Publié chez Dharma, 1989.

HOPKINS, Jeffray,Bouddhist Advice for Living ang Liberation; Nagarjuna’s Precious Garland.Ithaca, New York; Snow Lion Publication, 1998.
- CultivatingCompassion. New York: Broadway Books, 2001.

WALLACE, Vesna A. and B.Alan WALLACE, A guide to Bodhisattva Way of Life. Ithaca, New York, Snow LionPublications, 1997.

Rinchen, Geshe SONAM andRuth SONAM, Yogic Deeds of Bodhisattvas: Gel-stap on Aryadeva’s Four Hundred,Ithaca, New York, Snow Lion, 1994.

Chú Thích

1 Bodgaya: Phật Già-Đahay Chánh Giác Sơn. Đức Thích Ca đã tham thiền nơi đây và đắc quả Chánh Giác.
2 « Đỉnh kên kên », đỉnhnúi có khối đá hình dáng một con chim kên kên. Kinh sách tiếng Hán và tiếngViệt viết là « Linh thứu sơn », còn gọi tắt là « Linh sơn » (tiếng Phạn làGridharakuta »).

3 Ninh-mã phái (Nyingma)còn gọi là Hồng giáo vì các nhà sư đội mũ màu nâu đỏ. Đây là giáo phái xưa nhấttrong bốn giáo phái chính của Tây tạng.

4 Còn gọi là Tối thươngDu-già Tan-tra hay Vô thượng Du-già Tan-tra: phương pháp tu luyện tối thượng,thành phật trong kiếp này với thân xác này. Tối thượng Du-già Tan-tra xem tâmtịnh là căn bản của mọi phép tu.

5 Còn gọi là Bồ tát VănThù hay Diệu Đức, hay Diệu Cát Tường, hay Diệu Âm, (tiếng Phạn là Manjousrhi),là vị Bồ Tát tượng trưng cho Trí Tuệ và kinh nghiệm giác ngộ bằng phươngtiện Tri Thức.

6 Tăng đoàn

7 Câu này là tiếng Phạn,tạm dịch nghĩa: « Om, Ngọc Quý trong Hoa Sen, Hum » (Om và Hum không cónghĩa nhưng hàm chứa âm hưởng thiêng liêng)

8 Ý câu này có lẽ muốnnói đến sự cân đối giữa tâm linh và thể xác, hàng thú vật phần tâm linh kémhơn.

9 Chẳng hạn trường hợpchó xông vào đám cháy để cứu trẻ em, nhảy xuống sông cứu người chết đuối, hoặctrường hợp cá voi, cá heo cứu người trên biển...

10 Đây là một mệnh đề vềluận lý triết học. Một cách đại cương, sự hiện hữu của xác thân trên đó giáccảm, sự cảm nhận và tâm thức phát triển, là do sự phối hợp của rất nhiều «nghiệp », hay rất nhiều nguyên nhân và điều kiện.

11 Thánh Thiên: têntiếng Phạn là Aryadeva, dịch âm là Đề-Bà, dịch nghĩa là Thánh Thiên Bồ-tát, còngọi là Độc Nhãn Bồ Tát vì giai thoại sau đây: Trên đường từ Tích Lan đến tuviện Nalanda, bắc Ấn độ, ngài gặp một người đàn bà xin một con mắt để tu luyện,ngài liền móc mắt bên phải và cho ngay. Thánh Thiên sinh vào cuối thế kỷ thứ IItại Tích Lan, là một trong những đệ tử quan trọng của Bồ Tát Long Thọ(Nagarjuna), và cũng là tổ thứ 15 của Thiền tông Ấn độ. Ngài trụ trì một thờigian khá lâu tại tu viện Nalanda, trước khi trở về phương Nam. Một trong cáctác phẩm chính của Ngài là « Bốn trăm tiết mục » liên quan đến du-già.

12 Hiện trạng thân thểphì nộm (quá mập), là một lo lắng của các xã hội Tây phương hiện nay.

13 Đức Dạt-lai Lạt-macũng như những nhà sư Tây tạng khác, khi thuyết giảng thường ngồi trong tư thếhoa sen trên một bục gỗ cao trang trí rất đặc biệt.

14 Dịch câu này tôi liêntưởng đến hiện tượng ta gọi là « phép lạ ». Dù phép lạ có thật, xảy ra thậtnhiều và thường xuyên đi nữa, rốt cuộc ta cũng chết. Phép lạ không phải là mộtgiải pháp, cũng chẳng phải là một lối thoát. Nếu « có thật » đi nữa, cũng chỉlà tạm thời và giai đoạn mà thôi, kể cả phép lạ và người làm ra phép lạ, sựthoái hóa và tan rã cũng đã nằm sẵn trong đó.

15 Tsongkapa, dịch âm làTông-Khách-Ba (1357-1419), là một vị Lạt-ma nổi danh của Tây tạng, sáng lậptông phái Cách lỗ (Gelugpa). Ông sinh ở tỉnh Amdo, cùng quê với Đức Đạt-laiLạt-ma XIV. Từ bé đã cực kỳ thông minh, lúc ba tuổi thụ giới với một vị sưthuộc dòng Cát-mã-ba (Karmapa). Trong số những tác phẩm ông đã để lại có thiênluận giải gồm 18 bộ, đã trở thành kinh sách giáo khoa của Phật giáo Tây tạng.

16 Một câu nói rất ýnhị, một vị bác sĩ đương nhiên sẽ hiểu rằng giả thuyết nào sẽ gần với sự thậthơn hết để chuẩn bị.

17 Vô minh, tiếng Phạnlà Avidya, dịch âm là A-vĩ-nễ hay A-vĩ-di, có nghĩa là tâm thức không sáng, ámmuội, u mê, không nhìn thấy bản thể đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố.Vô minh cũng có nghĩa gần tương đương với si, si mê (mudha, moha).

18 Giai đoạn trung gian,còn gọi là trung ấm, tức giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống.

19 Thuộc miền tây bắc Ấnđộ, nơi Đức Dat-lai Lạt-ma lưu trú.

20 Dịch âm là kinhCha-kra sam-va-ra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe đại hạnh ». Một bộ kinh quantrọng của Phật giáo Tây tạng.

21 Dịch âm là kinh Ka-lacha-kra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe thời gian » hay kinh « Thời luân ». Bộkinh rất quan trọng thuộc trường phái của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Kinh Ka-lacha-kra là một bộ kinh rất thâm sâu và phức tạp, xuất hiện vào khoảng thế kỷthứ X ở Ấn độ, nhưng theo truyền thống thì bộ Kinh này có nguồn gốc xưa hơn, từthời Đức Phật Thích-ca.

22Phật ứng hiện dưới baxác thân gọi là Tam thân Phật:

-Pháp thân (dharmakya):bản thể của Phật, còn gọi là Chân như.

-Báo thân (vipakakaya):hiện thân của Phật.

-Ứng thân (nirmànakaya):còn gọi là Hoá thân, Ứng hóa thân, Biến hóa thân...có nghĩa Phật ứng hiện ởmuôn ngàn thể dạng khác nhau để tùy cơ dẫn độ chúng sinh.

23 Thanh tịnh độ còn gọilà Tịnh độ, Phật quốc, Phật giới, Phật địa v.v…

24 nKhông được rõ vềlịch sử các nhân vật này và nguồn gốc kinh sách trích dẫn.

25 Tức là sự nhận biết,còn gọi là thức (tiếng Phạn: vijnana), có thể xem tương đương với các chữ nhưtri giác, ý thức hay tri thức, khác nghĩa với tạng thức hay hay A-lại-gia-thức(tiếng Phạn alayavijnana). Học phái Duy Thức xem tạng thức là dạng thể cao nhấtcủa phần tâm thức, là căn bản của mọi hiện tượng. Nghĩa khác biệt nhau giữa cácdanh từ là một trở ngại lớn trong việc dịch thuật. Các chữ thức, tri thức, trigiác...có nghĩa là sự nhận biết, trong khi đó chữ tâm thức hay tâm linh cónghĩa rộng và sâu hơn, gồm cả xúc cảm, sự suy nghĩ, tình cảm, những xung năngtiềm ẩn...

26 Cách mô tả sinh họccủa Tối thượng Du-già Tan-tra là một cách mô tả « ẩn dụ », tức cụ thể hoá vàđơn giản hoá những gì phức tạp hơn, nhắm vào mục đích hướng dẫn sự chú tâm vàthiền định.

27 Đám rối dương (plexussolaire) là một danh từ Y khoa, còn gọi là trung tâm thần kinh thực vật nằmgiữa dạ dày và xương sống.

28 Trẻ vị thành niên ởcác trường học, hoặc trong phòng riêng của chúng thường bày trò chơi bằng cáchdùng dây hay khăn buộc cổ và xiết thật chặt đến lúc gần ngất xỉu (chết) mớibuông ra. Chúng tự làm hay nhờ bạn làm giúp. Giây phút sắp ngất xỉu, vì thiếudưỡng khí lên óc, tạo ra một trạng thái « sảng khoái » (?) hay « hoa mắt » làmcho chúng thích thú. Trò chơi này thường gây nhiều tai nạn chết người, phụhuynh và những người giữ trọng trách giáo dục tại Âu châu thường chú ý canhchừng và cấm đoán. Trường hợp mô tả trên đây là dùng các kỹ thuật du-già (thiềnđịnh) để tìm hiểu những trạng thái sâu kín trong quá trình của cái chết.

29 Bà AlexandraDavid-Néel cũng đã chứng kiến những hiện tượng này, xin xem các sách của bà. BàAlexandra David Neel (1868-1969) là một người phưu lưu và xông pha khác thường,có một trí thông minh vượt bậc. Bà là người phụ nữ Âu châu đầu tiên đến đượcLhasa năm 1924. Bà viết rất nhiều sách về Phật giáo, về Tây tạng, Ấn độ, Trunghoa, và đã từng đến Việt Nam và có viếng đền thờ hai Bà Trưng tại Hà nội, trướckhi tiếp tục đi ngược lên Vân nam thuộc Trung quốc. Sách của bà đã có nhiều ảnhhưởng trong nền tư tưởng Phật giáo Âu châu và thế giới kể cả thế hệ trí thứccủa cha anh chúng ta trong cả hai giai đoạn tiền chiến và hậu chiến. Rất tiếcsách của bà rất ít được dịch sang tiếng Việt. Cụ Đoàn Trung Còn, một học giảlỗi lạc của Việt Nam, có trích dịch sách của bà trong quyển « Mấy thầy tu huyềnbí Tây tạng và Mông cổ » xuất bản năm 1942. Quê của bà ở miền Nam nước Pháp vàngôi nhà trước kia của bà hiện nay đã trở thành một bảo tàng viện trưng bàynhiều di vật, bản thảo các sách của bà ; bàn thờ Phật vẫn giữ nguyên như khi bàcòn sống. Hàng năm rất nhiều người đến viếng và chiêm ngưỡng. Khi Đức Đạt-laiLạt-ma đến miền Nam nước Pháp thuyết giảng, có ghé đến đây và đọc một bài diễnvăn tưởng niệm bà.

30 Tánh không, tiếngPhạn là « Sunyata » có sách viết là không, hư không, hư vô (các kinh sách Tâyphương dịch là vide, vacuité, espace, vacuum, emptyness...). Tánh không của mọihiện tượng, tức mọi vật thể và mọi biến cố, là một khái niệm căn bản của ĐạoPháp. Mọi hiện tượng ta « thấy » và « hiểu », tức cảm nhận được, chỉ là nhữngbiểu lộ tạm thời, phát sinh từ nhiều nguyên nhân và liên hệ với nhiều điều kiện; chúng biến đổi không ngừng, kể cả các nguyên nhân và điều kiện tạo tác rachúng. Đó là bản chất vô thường của mọi vật thể và mọi biến cố, thực tính haybản chất đích thực của chúng là Tánh không.

31 Kinh sách tiếng Việtvà Hán gọi là « giả tướng »

32 Trí tuệ tiếng Phạn làPrajna. Thật ra, trong kinh sách Tây phương cũng như kinh sách tiếng Việt,không có chữ nào tương đương và diễn tả hết ý nghĩa của chữ này. Chữ Prajnadịch âm là: Bát-nhã, Bát-lạt-nhã, Ban-nhã, Bát-la-nhã, Tỳ-bà-xá-na..., dịchnghĩa là Trí, Minh (Sáng), Trí-huệ hay Trí-tuệ...

33 Tiếng nhà Phật là VôMinh (=A-vĩ-di, Avidya).

34 Nhà bác học và triếtgia Pháp Blaise Pascal, thuộc thế kỷ XVII, đã phát biểu một câu nổi tiếng nhưsau: « Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu » (Je pense donc je suis). Vậy ta thửhỏi trước khi ta suy nghĩ, ta có hiện hữu hay không? Giữa hai sự suy nghĩ haysau một sự suy nghĩ (vì lý do này hay lý do khác, bắt buộc hay tự ý: xao lãng,ngất xỉu...), ta có hiện hữu hay không? Vậy sự hiện hữu của ta dính liền vớimột điều kiện phải có là sự suy nghĩ, sự suy nghĩ của ta lại dính liền với vô sốnhững điều kiện khác nữa, chẳng hạn như thân xác ta, tâm thức ta, sự học vấncủa ta, ngay cả sự hiện hữu của ta, v.v. và v.v…

35 Tức là giới luật củanhững vị Bồ tát, gọi là Bồ Tát Giới, gồm 10 điều nghiêm cấm hệ trọng và 48 điềunghiêm cấm thứ yếu. Điều 8 trong 10 điều nghiêm cấm hệ trọng là sự Ganh ghét.

36 Tông-khách-ba(Tsongkhapa) (1357-1419): là một vị Lạt-ma Tây tạng, sáng lập giáo phái Cách lỗ(Gelugpa)

37 Khi ta không thấy sựhiện hữu nội tại hay tự tại của mọi hiện tượng, ta cho là chúng không có, khônghiện hữu đích thực (Tánh không). Nhưng ta không thể phủ nhận cơ sở, tức đốitượng của những gì ta đang tìm kiếm. Rốt lại, ta nhận ra rằng những gì ta tìmkiếm và những gì ta phủ nhận cũng chỉ có bằng tên gọi hay danh xưng mà thôi.

38 Có thể tạm hiểu như «thực tính » của một hiện tượng.

39 Tức ba giai đoạn hiểnhiện của bầu-trời-tâm-thần màu trắng, màu đỏ cam, màu đen.

40 Mặc dù hết sức đađoan, Đức Đạt-lai Lạt-ma vẫn ngồi thiền, học hỏi, tu tập liên tục mỗi ngày,luôn luôn nhắc đến các vị thầy của mình và truyền lại cho chúng ta những kinhnghiệm đã học hỏi được. Xin chú ý sự khiêm nhường của một vị « Phật sống ».Trong nhiều sách khác Ngài cho biết vẫn ngồi thiền và ôn tập các giai đoạn củaquá trình cái chết từ sáu đến tám lần mỗi ngày. Ta thấy rằng điều này chẳng cóhại gì đến sự thư giản, và sức làm việc của Ngài, vì lúc nào Ngài cũng tươicười, ân cần với tất cả mọi người, có khi lại rất dí dỏm và khôi hài.

41 Những hiện tượng nàyđã được nhiều bệnh viện và bác sĩ Tây phương chứng nhận khi có các nhà sư Tâytạng chết tại Mỹ châu và Âu châu. Chỉ có các nhà sư Tây tạng mới xác định đượclúc nào người chết đã « chết hẳn ».

42 Có những trường hợpkhi các vị cao tăng ngồi thiền, hoạt động sinh lý của cơ thể chậm hẳn lại, timđập rất nhẹ và rất chậm, nhịp thở cũng rất chậm và thật nhẹ, mạch gần như khôngnhận ra. Các vị ấy bất động trong tư thế ngồi thiền giống như tình trạng đãviên tịch, nhưng râu tóc vẫn thấy mọc. Người chung quanh chờ mãi không thấyđộng tịnh, hư rữa, liền đem sơn (loại sơn mài) bôi lên khắp người thành một photượng. Ngày nay người ta có thể nhìn thấy hoặc chụp hình bộ xương bên trongbằng quang tuyến X. Những di tích này vẫn còn ở Việt Nam và vài nước Á châukhác.

43 Dịch nghĩa là kinh «Kết hợp thần bí », bộ kinh này được dịch sang tiếng Tây tạng vào thế kỷ XI.

44 Có thể đây là nhữnghình ảnh cụ thể hóa dùng để mô tả những diễn biến siêu hình vượt ra khỏi sứchiểu biết thông thường của ta, trong mục đích sử dụng cho việc thiền định.

45 Tức là không còn táisinh nữa

46 Phát huy hơi nóng làcách tu tập của một số nhà sư Tây tạng. Vào mùa đông dưới không độ, họ trầntruồng ngồi thiền định xếp hàng trên tuyết, những người phục vụ nhúng một cáimền (chăn) hay khăn trong nước lạnh buốt và đắp lên lưng họ, khi chăn khô vìhơi nóng thì lại đắp lên tấm khác. Số chăn sấy khô trong một đêm xác nhận cấpbậc thiền định của mỗi người. Hiện tượng này gần đây đã được các bác sĩ ngườiMỹ nghiên cứu bằng cách nhờ các nhà sư Tây tạng trên đất Mỹ và tại Dharamsala(Ấn độ) thực hiện. Họ đeo cho các nhà sư máy móc để đo nhịp tim, áp huyết vànhiệt độ nhiều nơi trên thân thể, mặt nạ đo nhiệt độ và tổng lượng dưỡng khíhít vào, khí oxid carbon thở ra v.v....Bà Alexandra David-Neel cũng có mô tảcách luyện tập này trong các sách của bà. Chính bà cũng tập luyện thành côngphép này và cho biết hơi nóng phát sinh giúp những nhà sư ngồi thiền định trongcác hang núi ở Hy Mã Lạp Sơn có thể nhịn đói và chịu lạnh qua hết mùa đông. Bàcòn cho biết những người tu cao, không cần ngồi trong tư thế thiền định, sứcnóng vẫn phát sinh tự nhiên, chỉ cần mặc một áo mỏng giữa mùa đông.

47 Để đưa ra một thí dụ:Sau đây là vài lời khuyên của một nhà sư người Mỹ Lama Surya Das, từng tu họcgần ba mươi năm ở Népal, Tây tạng, Ấn độ, và hiện giảng dạy tại Mỹ (vùng Boston):

Khi ngồi, ta hãyngồi như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đứng, ta hãyđứng lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đi, ta hãybước lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật
Khi suy nghĩ, tahãy suy nghĩ như một vị Phật. Hãy để cho Phật suy nghĩ xuyên qua tâm ta.
Khi thở, ta hãyhít thở như một vị Phật.
Hãy để cho Phậthít thở bằng thân xác ta.
Hãy để cho Phậtsống bằng thân xác ta. Hãy xem ta là một vị Phật.
Hãy tận hưởng sựtoàn thiện tự nhiên. Ta sẽ nhận thấy rằng ta giống rất nhiều với một vị Phật,nhiều hơn là ta đã tưởng.
(Lama Surya Das:Éveillez le Bouddha qui est en vous, nhà xuất bản Robert Laffont, 1998, 347trang, đoạn trích dẫn trang 129, sách dịch từ nguyên bản tiếng Anh)

48 Thần linh biểu tượngcủa Trí tuệ.

49 Khi « lấy » tinhtrùng của một người đàn ông và trứng của một người đàn bà trong những điều kiệnnào đó, chính « người cho » và « người thực hiện » việc thụ thai trong ốngnghiệm đã mang những chủ đích rõ rệt và những kích thích tiềm ẩn. Kể cả trongngành chăn nuôi kỷ nghệ ngày nay (heo, bò, ngựa...), cũng cần phải kích thíchcon vật đực để lấy tinh trùng và chờ lúc thích hợp để đưa tinh trùng vào tửcung của con vật cái. Chính những chủ đích, xu hướng và những kích thích tiềmẩn như vừa kể đã tạo ra những điều kiện cần thiết hay môi trường (duyên) « thuhút » hoặc « ruồng bỏ » (tác động của nghiệp) liên hệ đến sự kết hợp trứng vàtinh trùng (quả của nghiệp); sự kiện thụ thai chỉ là cơ sở chuyên chở cho sựtái sinh.

50 Tức là thụ thai trongống nghiệm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2022(Xem: 18680)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14302)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12575)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6735)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8853)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7857)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31885)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17885)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
17/11/2021(Xem: 20376)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16789)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567