Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năng lượng tâm

06/11/201206:43(Xem: 4167)
Năng lượng tâm

chu-TamNĂNG LƯỢNG TÂM

Thành Văn

Nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng với những yêu cầu của khoa học hiện đại thì đấy sẽ là Đạo Phật (Albert Einstein).

Điều đó khá rõ ràng, khi chúng ta thấy Đức Phật Ngài không hề tự nhận mình là một thần linh xuống thế để ban phúc giáng họa cho ai cả. Ngài xuất thân cũng chỉ là một chúng sinh bình thường như chúng ta. Nhưng nhờ công phu tu tập nhiều đời, nhiều kiếp, đến đời sống sau cùng Ngài đi nốt con đường Ngài đã chứng ngộ chân lý, khám phá ra tất cả những bí mật của vũ trụ và tìm ra được con đường vượt thoát khỏi sự ràng buộc đó.

Chúng sanh đi theo con đường của Ngài cũng nhìn nhận Đức Phật trước hết là một vị Thầy (Bổn Sư, Thế tôn), người đã chỉ cho chúng ta con đường tu tập để giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, nguồn gốc của mọi khổ đau. Những gì Đức Phật đã khám phá ra không chỉ là khoa học, nó bao trùm tất cả mọi quy luật của vũ trụ; nghĩa là bao trùm cả khoa học ngày nay. Bởi khoa học ngày nay chỉ khảo sát và ứng dụng được những thứ thuộc đời sống vật lý. Đó là thứ khoa học về vật chất. Khi đụng đến các vấn đề về tinh thần khoa học phải dừng chân và chuyển giao các vấn đề ấy sang một lãnh vực khác; đó là triết học và tôn giáo.

Nếu Đức Phật không phải là thần linh, Ngài là một nhà khoa học, hơn thế nữa Ngài là một nhà “siêu khoa học”.

Newton phát kiến ra luật vạn vật hấp dẫn, ông mở đầu cho những nghiên cứu sau này của nhân loại để vượt khỏi sức hút của trái đất bay vào không gian. Archimede khám phá ra lực đẩy của chất lỏng, để cho các nhà khoa học đi sau chế tạo ra tàu ngầm chạy dưới nước như cá.

Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc của thế giới vật chất để hiện hữu mà không cần phải tựa trên một thực thể vật lý.

Từ 25 thế kỷ trước, bằng trí huệ siêu thế, Đức Phật đã nhìn thấy “trong một cốc nước có vô số chúng sanh”. Ngày nay khoa học cho thấy rõ đó là những vi sinh vật mắt thường không trông thấy được, nhưng nếu đặt dưới kính hiển vi điện tử những sinh vật ấy sẽ hiện nguyên hình cho chúng ta quan sát.

Trong một cá nhân, ngoài phần vật chất bao gồm sự duyên hợp của tứ đại: đất, nước, gió, lửa, còn có một phần phi vật chất, hay còn gọi là tinh thần bao gồm tâm và trí. Phần trí con người có thể phần nào kiểm soát được. Phần tâm vẫn còn là một cái gì bí mật mà con người chỉ mới có khái niệm lờ mờ và không kiểm soát được.

Trong phần trình bày sau đây, người viết xin khai triển một khái niệm thuộc về tâm; đó là năng lượng tâm. Nói đến năng lượng là nói đến một nguồn sức mạnh.

Nó có thể được sản xuất ra, tàng trữ và sử dụng, như năng lượng điện chẳng hạn.

Xin lần lượt đưa ra những thí dụ của đời thường, để từ đó suy nghĩ và thử đưa ra những giải thích chứng minh sự hiện hữu của một thứ năng lượng xuất phát từ tâm; tức là thuộc lãnh vực vô hình tàng ẩn trong con người. Năng lượng ấy nếu biết định rõ, thu góp, tích trữ có thể sử dụng để đưa con người vượt qua những giới hạn của khoa học vật lý.

Thí dụ 1./ Trong bộ phim Out of Africa có cảnh người thợ săn và bạn gái của anh ta phải đối diện với một con sư tử. Con sư tử khi phát hiện ra hai người đứng gần chiếc xe của họ, nó lừng lững bước tới và chuẩn bị chạy tới tấn công cô gái. Cô gái kinh hoảng thối lui, toan bỏ chạy. Anh thợ săn mắt vẫn theo dõi con mãnh thú, tay lăm lăm khẩu súng sẵn sàng nhả đạn để cứu bạn, đồng thời anh la to trấn an cô gái: “Đừng sợ, đừng chạy, hãy đứng lại, nhìn thẳng vào mắt nó. Nó sẽ không làm gì cô đâu.”

Cô gái mặc dù đang hoảng sợ nhưng vẫn còn đủ bình tĩnh làm theo lời bạn trai. Quả nhiên, con sư tử đang hung hăng chuẩn bị nhào tới cô gái, nó bỗng chùn chân lại. Sau đó nó chậm rãi quay đầu bỏ đi.

Lý giải sự kiện: Người thợ săn, nhờ có kinh nghiệm, có khẩu súng trong tay, anh ta hoàn toàn bình tĩnh, không hề hoảng sợ trước con mãnh thú. Trong não bộ anh không có tín hiệu phát ra truyền đến não bộ con vật. Trước mặt nó, có vẻ như người thợ săn không có mặt. Nó nhìn anh nhưng không thấy anh, hay thấy nhưng không bị kích động bởi bản năng tấn công.

Ngược lại, với cô gái, vì thiếu hiểu biết về loài sư tử, trong tay lại không có vũ khí, cô rất sợ hãi. Lập tức não bộ cô phát ra một tín hiệu dưới dạng sóng vô tuyến. Con vật bắt được làn sóng đó và nó “thấy” cô, đồng thời nỗi sợ hãi của cô kích thích bản năng tấn công của nó nên nó nhắm cô xông tới.

Khi nghe lời anh thợ săn, cô gái bình tĩnh lại, tín hiệu từ não bộ cô ngưng phát ra. Con vật bị ngắt tín hiệu, nó chợt “không thấy” cô nữa, đồng thời cũng không bị kích thích, nên lặng lẽ bỏ đi.

Trong trường hợp này, chính năng lượng tâm từ cả hai con người đã truyền đến con vật theo hai cách. Năng lượng này có dưới dạng sóng điện từ, nếu có máy móc có thể ghi nhận được.

Thí dụ 2./ Trong một chuyến đi chơi xuyên bang bằng xe đến Yellowstone đoàn chúng tôi gồm 5-6 người lớn và mấy đứa trẻ con. Ở một địa điểm nghỉ ven đường nơi có nhiều con sóc từ những bụi cây gần đó chúng chạy đến gần những du khách để được cho ăn những hột đậu.

Tôi nhận thấy những con sóc tỏ ra e dè sợ sệt những người đàn ông, không dám đến gần ăn những hạt đậu hay bắp rải ra cho chúng. Đối với đàn bà, chúng tỏ vẻ hơi dạn dĩ hơn, nhưng vẫn e dè. Riêng với những đứa trẻ nhỏ, đám sóc tỏ ra thân thiện thấy rõ. Chẳng những chúng không né sợ mà có con còn chạy đến gần sát nhặt ngay cả những hạt đậu còn nằm trên bàn tay những đứa trẻ.

Khi tôi đưa thắc mắc này ra hỏi thử những người cùng đi xem họ nghĩ sao. Có người bảo “Tại nó thấy mấy ông to lớn quá nên sợ, còn trẻ con nhỏ người nó ít sợ hơn.” Tôi không đồng ý. Về nhà suy nghĩ thêm, tôi cho rằng vấn đề không phải do thân người lớn nhỏ. Đối với những con sóc, ngay cả một đứa trẻ sáu bảy tuổi cũng đều to lớn hơn nó nhiều, và đều có thể làm hại nó y như người lớn vậy.

Nhưng nó sợ người này hay không sợ người kia là do bới tín hiệu từ tâm phát ra ở mỗi người. Đối với người lớn, do tâm đấu tranh, thù hằn, sát hại đã huân tập nhiều năm trong tàng thức nên trong tâm họ tàng trữ những năng lượng hủy diệt nhiều hơn những đứa trẻ. Những năng lượng ấy tự phát tán ra không theo sự kiểm soát của con người. Thú vật thường thân thiện quấn quýt trẻ nhỏ hơn người lớn là vì vậy.

Dù ngay lúc đó không ai có tư tưởng bắt hay làm hại những con sóc, nhưng chúng vẫn nhận được từ người lớn những năng lượng tâm có dấu ấn ác trong quá khứ, nên chúng sợ. Tự dưng chúng sợ thế thôi. Chứ không phải vì người lớn to con hơn trẻ nhỏ.

Người ta thấy có những người khi ở gần họ ta thấy an ổn. Với những kẻ khác, ta có cảm giác bất an đôi khi ghê sợ khi đến gần họ. Ta gọi đó là linh tính. Linh tính ấy phát sinh do sự chuyển tải một năng lượng từ tâm người này sang tâm người khác.

Thí dụ 3./ Tôi có thói quen đi dạo trong công viên gần nhà, ở đó có nhiều người giắt chó đi dạo. Thường những con chó càng nhỏ càng có thái độ hung hăng, sủa những người đi ngược chiều. Thậm chí có con còn xấn đến chỗ người đi ngược chiều với vẻ đe dọa. Tôi chợt nhớ lại bài học về tâm, nên trong đầu nảy ra ý nghĩ, rải tình thương đến chú chó vừa nói thầm trong bụng: con chó hiền quá, trông nó thật dễ thương. Quả nhiên con chó nhỏ đang hung hăng sủa, nó im bặt, lặng lẽ quay lại bước gần bên chủ.

4./ Một cô gái đứng chờ xe buýt. Sau lưng cô cách mấy thước có một chàng thanh niên cũng đang đứng chờ như cô. Cô gái khá xinh đẹp. Chàng trai đã để ý thấy. Chàng dán đôi mắt nhìn chăm chăm vào sau gáy cô gái và trong đầu chàng phát ra tín hiệu yêu thích. Chỉ một lát sau không lâu cô gái quay lại và bắt gặp tia nhìn ấy vì cô cảm thấy nhột nhạt ở gáy như có một bàn tay đang sờ vào. Đó chính là do một năng lượng đã truyền từ não bộ chàng trai sang não bộ cô gái. Nếu cô gái cũng có cảm tình với chàng, họ lập tức phải lòng nhau. Trường hợp này ta gọi là cú sét ái tình (coup de foudre).

5./ Câu chuyện về vị thiền sư và hai chậu hoa. Một vị thiền sư tu thiền. Ông dùng phương pháp “rải tâm từ”. Muốn xác định năng lực của tâm từ bi, ông tự thân làm thí nghiệm như sau: nơi hậu liêu chùa, thiền sư trồng hai chậu hoa cùng một loại. Khi mới đem về trồng hai chậu hoa tươi tốt ngang nhau.

Tuy nhiên sau đó, hàng ngày chăm sóc hoa, ông dụng tâm vào việc chăm sóc hai chậu hoa hai cách khác nhau. Một chậu, trong khi vừa chăm sóc, bón xới, tưới nước, tỉa cành ông vừa rải tâm từ, đầu nghĩ, miệng thì thầm: “Ôi, cây hoa thật là đẹp. Ta rất thương con, ta chăm sóc con và mong muốn con sẽ xanh tươi, trổ hoa tươi thắm.” Ngược lại, đối với cây hoa trong chậu kia, trong khi chăm sóc, ông khởi tâm dằn hắt, chê bai hoa xấu xí, cằn cỗi, không đẹp chút nào và vì thế ông mắng thầm nó là ông không thích nó.

Sau một thời gian không lâu, hai chậu hoa dù được chăm bón giống nhau, nhưng cây hoa được yêu thương khen ngợi phát triển tốt tươi ra hoa thường xuyên hơn. Còn cây kia, phát triển èo uột, sắc lá bạc, ít hoa và thường mau héo rụng.

Khi đã nhìn thấy kết quả, thiền sư khởi tâm sám hối, thương xót cây hoa bị ruồng rẫy. Ông đổi thái độ, chăm sóc nó với tâm từ ái giống như cây kia. Chỉ ít lâu sau, cây hoa “xấu” kia dần dần thay đổi sắc diện, trở nên tươi đẹp giống như cây kia.

Điều này biểu hiện rất rõ nơi con người. Một cô gái sau khi lấy chồng, nếu được chồng và gia đình bên chồng yêu thương chiều chuộng, cô sống trong hạnh phúc, nhan sắc người ấy sẽ trở nên rực rỡ mà khi về nhà cha mẹ đẻ ai cũng dễ dàng nhận ra. Ngược lại, nếu phải sống trong sự đè nén, bực dọc khó chịu bên nhà chồng và gặp phải người chồng không yêu thương chiều chuộng, cô ta sẽ xuống sắc mà dù có điểm trang, khi về nhà ai cũng nhận thấy vẻ dáng không hạnh phúc của cô.

Trong khoa thôi miên, hành giả đã rèn luyện sự tập trung tư tưởng, chú tâm vào một vật, rồi bằng ý nghĩ và sự tưởng tượng để điều khiển đối tượng. Khi thành công, người thôi miên có thể dùng tâm tác động lên tâm người khác, làm cho người ta ngủ hay sai khiến người khác làm theo lệnh mình.

Đôi khi thế giới xuất hiện một số người có khả năng đặc biệt. Có người có thể nhìn chăm chú vào một cái muỗng, khiến nó cong lại. Có người nhìn và làm bể một chiếc ly thủy tinh hay làm một vật bốc cháy. Đó là những công năng đặc biệt phi vật chất và xuất phát từ tâm (ý nghĩ). Đó là thứ năng lượng tâm khoa học chưa biết rõ hay kiểm soát được.

Ngày nay, trong quân đội của các nước tiên tiến như Mỹ, Nga, Trung cộng… người ta đang có tham vọng nghiên cứu môn thần giao cách cảm (télépathy) để áp dụng trong ngành truyển tin; liên lạc giữa các vị chỉ huy cao cấp và các điệp viên với trung tâm điều khiển. Người ta dùng phương pháp “tâm truyền tâm” để liên lạc với nhau, không qua máy móc phát sóng vô tuyến khiến đối phương không thể rà bắt được tần số. Tham vọng đó còn lâu mới có thể thành hiện thực, nhưng không phải là bất khả. Cách đây vài thế kỷ, cách xa nhau hàng vạn dăm mà vẫn nghe được tiếng, thấy được hình nhau là chuyện chỉ có trong cổ tích. Bay lượn trên trời như chim chỉ có Tôn Hành Giả và các vị tiên làm được. Ngày nay đằng vân giá võ là chuyện thường, ai cũng làm được.

Trong lãnh vực khoa học viễn tưởng, người ta đã nghĩ đến một thứ vận tốc tức thời (instant speed) chế ra các phi thuyền chạy bằng năng lượng tâm để thám hiểm vũ trụ. Đối với các thiên thể ở cách trái đất hàng trăm ngàn năm ánh sáng nếu chỉ bay bằng các phi thuyền dùng năng lượng khí lỏng như hiện nay, con người sẽ chỉ loanh quanh trong thái dương hệ là cùng. Cho dù có bay bằng năng lượng nguyên tử cũng vậy thôi.

Bằng các phương tiện vật chất con người sẽ bị giới hạn bởi rất nhiều định luật vật lý của vũ trụ. Nhưng bằng năng lượng tâm con người sẽ trở nên tự tại trong không gian và thời gian. Các vị Phật đã chứng ngộ bằng con đường tâm linh đã đạt được điều đó.

Với khoa học, con người hiện nay đã đạt được một số thần thông: thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ, đằng vân và đang nuôi tham vọng bất tử qua các kỹ thuật sinh học, nhân giống vô tính v.v…

Tuy nhiên ngày nào nhân loại còn phải bám víu vào khoa học vật lý ngày ấy con người vẫn phải bị chi phối và hạn chế bởi các định luật vật lý. Chỉ qua hai con đường: tâm linh hoặc kết hợp được sức mạnh tâm linh và vật chất con người mới có thể vượt qua được các giới hạn hiện nay.

Phải chăng các giống người ngoài hành tinh (alien) họ chính là những “người trời” sau khi đã tiến hóa rất xa về khoa học, nhưng họ vẫn còn ở tầng trời hữu sắc. Đối với các tầng trời vô sắc, còn phải vượt qua một ngưỡng nữa để tâm có thể tồn tại như một năng lượng độc lập mà không cần phải tựa trên một thân xác vật lý.

Hiển nhiên đấy là một tương lai còn rất xa của nhân loại. Tuy nhiên biết đâu đấy vẫn có thể là sự thật, một sự thật không thể nghĩ bàn, ít ra là với trí thông minh hiện nay của con người?

THÀNH VĂN

Oct., 2012

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/01/2012(Xem: 7461)
Vô tận trong lòng bàn tay, Sự dị biệt giữa tôn giáo và khoa học được đánh dấu khởi đầu từ luận đề của Galilée và từ đó đã khiến nhiều người cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật Giáo với các tôn giáo khác đã cho là: nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của khoa học, thì chính đó là Phật giáo. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý và thực tiển của Phật Giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trên kinh điển và giáo điều. Đúng như điều Einstein cảm nhận, Ph
15/01/2012(Xem: 4709)
Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hailà ý thức và vô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong támphần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần củatâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn... Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
15/01/2012(Xem: 5316)
Từ một tình trạng không có gì, phi thời gian không gian, không cần một nguyên nhân ngoại lai, có một sự bùng nổ, phát ra năng lượng và vật chất. Đó là hiệu ứng được mệnh danh là “hiệu ứng lượng tử”, xuất phát từ sự tăng giảm không đều của năng lượng. Nói tóm gọn, vũ trụ là kết quả của một sự sáng tạo mà không có người sáng tạo.
07/01/2012(Xem: 6304)
Chúng ta hãy đừng lừa dối chính mình, điều này tưởng chừng như không khó khăn nhưng thật sự đó là điều khó nhất trong tất cả các trạng thái mà chúng ta có thể đạt được. Bằng cách "Không lừa dối chính mình", nghĩa là tôi muốn nói chúng ta hãy ngưng vẽ một bức tranh của thế giới ngày nay bằng những sai lầm với các màu sắc khoái lạc, vì tiện nghi và an toàn cho riêng mình. Chúng ta, toàn thế giới, phải đương đầu với sự sai lầm này, thật là tệ. Chúng ta phải thật sự lưu tâm đến hoàn cảnh của chúng ta đang sống. Chúng ta cần phải truy nguyên tận căn để của tất cả các mối nghi ngờ và hiểu lầm của mình, và chúng ta có thể bắt đầu như thế nào để loại trừ nó một cách tốt nhất. Và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu chúng ta không thực hiện điều này, chúng ta phải đối đầu với các trở ngại đó.
02/01/2012(Xem: 2766)
Với tư cách một nhà vật lý thiên văn học nghiên cứu sự hình thành và tiến hóa của những thiên hà, công việc làm tôi không ngừng tự vấn về những khái niệm về thực tại, vật chất, thời gian và không gian. Là một người Việt lớn lên trong truyền thống đạo Bụt, tôi không thể không tự hỏi đạo Bụt chú ý tới những khái niệm này như thế nào. Thế nhưng, lập luận dựa vào việc đối chiếu khoa học và đạo Bụt chưa chắc sẽ có ý nghĩa. Nhất là ở phương diện thực tập của đạo Bụt, con đường giúp đạt tới sự hiểu biết về cái ngã, phát triển tâm linh hoặc trở thành một con người tốt đẹp hơn.
30/12/2011(Xem: 5922)
Trên đời này có hai thứ cao quý nhất đó là bảy thứ: vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não còn được gọi là thất bảo và phật pháp tăng. Các thứ cao quý ấy được xuất phát từ thế gian. Các loại ngọc và vàng bạc được có trong lòng đất với thời gian cả ngàn năm, tỷ năm do môi trường của đất tạo nên. Các thứ ngọc gọi là đá quý, còn vàng bạc gọi là kim loại quý.
25/10/2011(Xem: 6748)
Thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo?
15/10/2011(Xem: 4246)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
13/10/2011(Xem: 5337)
Nhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.
08/10/2011(Xem: 2947)
Khái niệm Ông Trời đã có từ lâu trong kho tàng văn chương dân gian Việt, nhưng hình ảnh Ông Trời không hề mang ý nghĩa một đấng sáng tạo vũ trụ, mà chỉ là một chúng sinh, một người rất người trên cõi trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567