Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khoa học và lẽ vô thường của Phật học

22/11/201017:08(Xem: 3684)
Khoa học và lẽ vô thường của Phật học

hoa cuc (1)

"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm. Quả là thế! Hôm sau ta đến tắm đúng khúc sông hôm trước, nhưng dòng chảy hôm sau đã là dòng nước khác, tức con sông khác, không khí, cảnh vật, ánh sáng đã khác. Ý tưởng bất hủ này phản ánh tư tưởng vạn vật chuyển hoá của Hêraclitôxơ, ông tổ biện chứng luận phương Tây. Theo ông: vũ trụ là một tổng thể không do thần linh tạo ra mà do lửa biến thành các yếu tố khác (nước, đất...) mà sinh ra vạn vật. Vạn vật lại biến thành lửa, các vật đối lập luôn luôn chuyển hoá thành vật đối lập, xung đột, đó là nguồn gốc của sự phát triển.

Tư tưởng vạn vật chuyển hoá nuôi dưỡng khoa học và nhiều hệ tư tưởng triết học phuơng Tây. Thuyết tiến hoá (évolustionnisme) là học thuyết duy vật và nguồn gốc về sự phát triển của sinh vật qua một quá trình lịch sử. Đặc biệt, trong Nguồn gốc các giống, Darwin đề ra một lý luận khoa học cho thuyết tiến hoá. Theo ông, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, giống nào thích ứng thì sống, theo quy luật chọn lọc tự nhiên. Tính biến đổi và tính di truyền đều là thuộc tính của sinh vật. Biến đổi nào có lợi cho nó trong cuộc đấu tranh sinh tồn thì được lưu giữ lâu dài. Theo thiên thể học, vũ trụ cũng theo quy luật biến hoá. Ước tính Thái dương hệ hình thành cách đây 5 tỷ năm, quả đất cách đây 4 tỷ 600 triệu năm, với sự hình thành sự sống cách đây 200 triệu năm của những tảo lam đầu tiên trong đại dương.

b0790673612198502812_jpg

Từ nguyên lý tất cả đều chuyển hoá, Phật học đã gặp khoa học với khái niệm cơ bản vô thường. Vô thường là gì? Nói một cách đơn giản, vô thường nghĩa là không thường tồn tại, mà thay đổi từng giờ từng phút, từng giây, tất cả mọi sự vật thuộc giới vô cơ hay hữu cơ, đều biến thiên vô thường. Vũ trụ vô thủy vô chung, tất cả các sự vật có thể nhận thức qua cảm giác hay ý niệm (được gọi là Pháp (Dharma = Đạt ma) đều chuyển biến, vô thường, chuyển biến trong nháy mắt, trong từng sát-na (thời gian nhỏ nhất), hay trong từng giai đoạn thay hẳn chất lượng do chuyển biến. Vô thường thể hiện theo luật nhân quả sinh ra, trụ một thời gian, biến chuyển rồi thành không, tất cả đều sinh rồi diệt do nhân duyên. Nhân là nguyên nhân, duyên là những điều kiện giúp cho nhân phát triển. Thí dụ hạt gạo là nhân cây lúa, còn môi trường như đất, nước, ánh sáng, phân... là duyên. Nhân duyên là những quan hệ biện chứng giữa các sự vật trong không gian và thời gian. Trong những quan hệ ấy, không tính đến lớn, nhỏ, một hạt cải nhỏ được tạo thành do mối quan hệ với cả vũ trụ, cả vũ trụ phải hòa hợp với nhau mới tạo ra hạt cải nhỏ. Ngược lại, phải có hạt cải nhỏ hòa hợp với cả vũ trụ lớn thì mới tạo ra được mọi thứ, kể cả mặt trời, mặt trăng... Mỗi sự vật có ảnh hưởng dây chuyền (duyên) đến tất cả. Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Sự vật không có thực thể, chỉ vô thường, có tạm thời. Sinh ra do nhân duyên hòa hợp (thành cá thể trái núi, cái cày, con vật, con người với cái Tôi...), mất đi do nhân duyên tan rã. Không thật có sinh, có diệt, thời gian và không gian, có người, có mình. Do ảo tưởng không biết quy luật vô thường, cho là sự vật hữu thường nên sinh lòng dục và khổ đau qua cái nghiệp.

Nhiều giả thuyết khoa học hiện đại về các biến thiên trong vũ trụ, từ tinh tú đến nguyên tử và vi sinh vật, có thể thuyết minh cho lẽ vô thường của Phật học. Xin lấy hai thí dụ khá lý thú.

Vô thường: một lục địa sinh và diệt. Đó là lục địa Đông Nam Á. Sau hàng chục năm nghiên cứu về mọi mặt (khảo cổ học, di truyền học, nhân học, ngôn ngữ học, dân tộc học...) bác sĩ người Anh S.Oppenheimer đã kết luận như vậy trong cuốn Thiên đường ở phía Đông (1999). Theo ông, cái nôi của văn minh loài người không phải là Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc mà ở Sunda, một lục địa Đông Nam Á lớn, nay đã bị chìm ngập. Cách đây 7.000 năm, nơi đây đã sản xuất ra những nền văn minh đầu tiên của nhân loại, khởi thuỷ từ thời Cách mạng đồ đá mới (cách đây khoảng 10.000 năm) chuyển từ hái lượm, săn bắt sang trồng trọt và chăn nuôi. Do hậu quả nạn hồng thuỷ vào thời băng hà, cư dân lục địa Sunda phải di cư lên phía Bắc (lục địa châu Á với Trung Quốc, Ấn Độ) và sang phía Tây (Địa Trung Hải, Cận Đông...) gieo rắc những mầm văn hoá Đông Nam Á.

BS. Oppenheimer đưa ra một số dẫn chứng cụ thể, đặc biệt về gen khi theo dõi sự lan rộng của bệnh sốt rét ở Đông Nam Á. Những cây lương thực đầu tiên, khoai sọ và khoai lang được trồng rất sớm ở Indonesia (10.000 -15.000 năm trước CN). Lúa được trồng ở bán đảo Thái Lan khoảng thế kỷ VI-VII trước CN, sớm hơn ở Trung Quốc. Nghệ thuật đúc đồng ở Thái Lan và Việt Nam cũng sớm hơn ở Cận Đông và Trung Quốc.

Vô thường: Nhân loại có sinh thì có diệt không? Theo khoa học, quả đất hình thành cách đây 4 tỷ 600 triệu năm, động vật có vú xuất hiện 700 triệu năm, người vượn cách đây 2,5 - 5 triệu năm, nền văn minh độ 5-7 nghìn năm trước CN. Con người tồn tại được do nhiều yếu tố, nhưng phụ thuộc chính vào mặt trời. Tuổi thọ mặt trời từ 10 đến 15 tỷ năm. Mặt trời tắt, hẳn sự sống trên trái đất sẽ không còn.

Theo tin Internet (Tú Anh), giáo sư Úc Frank Fenner, nhân loại sẽ lụi tàn trong 100 năm tới vì dân số quá đông (chiến tranh lương thực) và bầu khí quyển bị hâm nóng (do môi trường bị phá hoại). Lời tiên tri bi quan này dù không được sức thuyết phục, nhưng cũng đáng để ta suy nghĩ

Hữu Ngọc(Sức khỏe & Đời sống)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/02/2023(Xem: 8872)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 10161)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 8296)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 22963)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 23294)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 20106)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 16193)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 10291)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 11848)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 10580)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]