Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Định Phật Giáo Và Khoa Sinh Học

23/02/201322:15(Xem: 5785)
Thiền Định Phật Giáo Và Khoa Sinh Học

meditation_buddha1
THIỀN ĐỊNH PHẬT GIÁO và

KHOA SINH HỌC
(Buddhist Meditation and Bioscience)
Nguyên tác : Dr U. Aung Thein
Việt dịch: Trần Như Mai

Chúng ta cần ghi nhận một điểm thú vị là khi kiến thức khoa học về con người và vũ trụ càng gia tăng thì càng có nhiều bằng chứng được đưa ra để chứng minh giáo lý của Đức Phật là đúng. Phật giáo là con đường giải thoát do Đức Phật khám phá ra. Giáo lý đạo Phật được thể hiện qua Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Giải thoát bao hàm sự chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử.

Khoa học là việc nghiên cứu một cách khách quan những qui luật của tự nhiên để đưa ra những nhận định tổng quát và lời giải thích cho các hiện tượng đã được quan sát. Như nhà sinh lý học người Pháp Loeb đã nói :” Mục đích tối hậu của khoa học là để tiên đoán”.

Con đường giải thoát do Đức Phật dạy có thể được mô tả như một dường lối thực nghiệm và dựa trên kinh nghiệm hành trì. Cũng giống như trong khoa học, nhà nghiên cứu tiến hành từng bước một, thì trong Phật giáo, con người cũng tiến đến mục đích bằng cách luyện tập từ từ để từng bước đạt đến chánh tri kiến. Trong Phật giáo, nêu câu hỏi với các bậc tu hành không bị xem là thiếu lễ độ, vì đức tin mù quáng chẳng đưa đến đâu cả. Kiên trì tu tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp sẽ chuyển hóa con người để đạt đến tâm thanh tịnh cao thượng và tiến đến mức tột đỉnh là chấm đứt hoàn toàn vòng sinh tử luân hồi.

Bát Chánh Đạo được chia thành ba thành phần chính:

Phần thứ nhất là Giới , gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp,và chánh mạng.

Phần thứ hai là Định, gồm có chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Phần thứ ba là Tuệ, gồm có chánh tri kiến và chánh tư duy.

Trong Phật giáo, một sự kiện đựơc xem là nền tảng của giáo lý cho rằng tất cả sinh vật hữu tình là một tập hợp của ngũ uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thành tố này mang tính chất vô thường và lệ thuộc vào nhau, và xuyên qua nghiệp, chúng sẽ duy trì một quá trình vận hành tự động không bao giờ chấm dứt, đưa đến kết quả là một chuổi luân hồi sinh tử kể từ thời vô thủy và vẫn cứ tiếp tục cho đến khi có một phản ứng ngược lại có tác dụng vô hiệu hoá nó và đưa nó đến một trạng thái chấm dứt hoàn toàn hay sự giải thoát tối hậu.

Chúng ta hãy quan sát “con người ngũ uẩn” mà Đức Phật đã nói là :“Trong tấm thân dài sáu bộ này chứa đựng tất cả những bí ẩn và vấn đề của vũ trụ”.

Trong Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthāna) và Kinh Đại Niệm Xứ ( Mahāsatipatthāna) có nói rằng thân con người là một tập hợp của tứ đại gồm các chất lỏng và chất rắn. Một lần nữa, trong Kinh Mi-Tiên Vấn Đạo (Milinda Pañha), khi trả lời câu hỏi của Nhà Vua, Bậc Đại Giác đã so sánh thân con người như một tập hợp của các bộ phận rời và bày tỏ ý kiến rằng không có một cái gì gọi là một tổng thể hợp nhất cả.

Theo quan điểm hóa sinh và khoa giải phẩu học thì thân thể con người chỉ là một tập hợp các hệ thống hữu cơ trong đó những quá trình hóa học vẫn diễn biến liên tục. Nó cũng giống như “Cơ cấu trợ động” (Servomechanism) bởi vì, khi một bộ phận bị trục trặc thì toàn bộ hệ thống sẽ bị ảnh hưởng. Khả năng và khuynh hướng của cơ thể là luôn luôn tìm cách tái lập mức ổn định bình thường hay mức độ cơ bản được biết như là “ trạng thái quân bình tâm lý” ( Homeostasis).

Theo lời dạy của Đức Phật thì giữ cho thân và tâm ở trong một trạng thái quân bình là điều kiện tiên quyết để duy trì sức khoẻ thể chất, tình cảm và tinh thần rất cần thiết cho việc thực hành thiền định.

Trạng thái quân bình về thể chất, tình cảm và tinh thần đạt được là nhờ thực hành Giới, là nhóm ba thiện hạnh đầu tiên của Bát Chánh Đạo ( Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng). Trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), Giới được mô tả như là kiêng cử, tác ý, không phạm. Chướng ngại đối với Giới chính là sân hận, độc ác, giả dối, lo âu, ganh ghét, xảo trá, bất mãn, kiêu căng, ngã mạn, lười biếng, tham dục, miệng lưỡi buông lung, hạ liệt, không biết chế ngự các căn. Mục đích của Giới là để đối trị với những ác hạnh trên .

Bất cứ trạng thái tâm lý nào trong số các chướng ngại nêu trên cũng đều tạo ra sự thay đổi trong mức độ quân bình sinh hóa của cơ thể. Con người càng mất quân bình thì não bộ càng tiết ra nhiều hóa chất như là Acetylcholine, Serotonin, và Epinefrin . Những hóa chất này sẽ kích hoạt làm sản sinh nhiều hậu quả khác nhau trên các bộ phận của cơ thể như tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận, bộ tiêu hóa và các cơ quan sinh sản. Ví dụ, khi nỗi cơn thịnh nộ, tức giận hay dao động thì não bộ con người sẽ tiết ra chất Epinefrin làm gia tăng huyết áp, tăng nhịp đập của tim và tăng lượng khí oxy cần tiêu thụ.

Những trạng thái tâm lý thông thường khác mà chúng ta thường gặp là sợ hãi và lo âu. Khi con người ở trong trạng thái tâm lý như vậy thì dạ dày và đường ruột sẽ tiết ra một số lượng chất acid cao hơn bình thường, và nơi nào bị acid tấn công thì sẽ sinh ra chứng viêm loét niêm mạc.

Tình trạng căng thẳng tinh thần kéo dài được biết là sẽ làm tổn hại hệ thống tự động của não bộ, tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến tính nhu động của thực quản và làm xáo trộn bộ tiêu hoá và bài tiết. Kết quả là con người sẽ bị táo bón và tự tạo nên tình trạng ngộ độc cho chính mình, như vậy sẽ ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe thể chất, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó.

Ta có thể hiểu tại sao Đức Phật nhấn mạnh đến vấn đề thực hành Giới như là điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Hành thiền không thể nào thành công khi cơ thể, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó đang bị tổn hại. Người nào đã giữ Giới sẽ có thể thành công trong hành thiền, loại bỏ được những chướng ngại và có thể quán chiếu thực tại của các pháp tại và cuối cùng có thể đạt được giải thoát. Ba mục tiêu cao thượng ấy có thể đạt được trong bốn giai đoạn của Tứ Thiền.

Giống như trong khoa học, việc thành tựu một mục tiêu khoa học diễn ra từ từ và có phương pháp, cũng vậy việc thành tựu mục đích của Phật giáo qua thực hành thiền định cũng diễn ra từ từ, có thứ bậc và liên hệ chặt chẽ với các trạng thái sinh lý của cơ thể.

Áp dụng một vị trí tọa thiền vững chắc, an trú tâm vững chải không dao động và tập trung tư tưởng cao độ, là những điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Đức Phật đã hết sức ca ngợi pháp Quán Niệm Hơi Thở để thanh tịnh tâm mà nhờ đó chính Ngài đã chứng ngộ giải thoát.

Các nhà nghiên cứu hiện đại đã khám phá ra rằng các hành giả trong lúc hành thiền đã giảm mức độ hô hấp, mức tiêu thụ dưỡng khí cũng giảm khoảng 20% và mức thải thán khí cũng giảm.

Những tác dụng sinh lý khác cũng đã được chứng minh là việc giảm thiểu mức độ trao đổi chất trong cơ thể, việc giảm chất acid lactic trong máu đồng thời với việc gia tăng độ pH và việc giảm sút phản ứng co giật của da.

Bằng cách đoạn trừ các chướng ngại pháp sẽ đưa đến kết quả là một trạng thái an tịnh thân tâm, cùng với việc thực hành định tâm thật thiện xảo, hành giả sẽ chứng được Sơ Thiền ( First Jhāna). Đây là một trạng thái ly dục do hoàn toàn chế ngự được sắc giới. Bước chuyển tiếp sơ khởi này được xem như là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất mà hành giả cần đạt được trên con đường thiền định.

Sau khi chứng được Sơ Thiền, hành giả cố gắng chinh phục các cảnh giới của tâm. Nhị Thiền ( Second Jhāna) vận dụng sức mạnh của tập trung tư tưởng, đó là khả năng định tâm. Điều này được biết như là trạng thái nội tĩnh nhất tâm (Ekkāgathā).

Người ta có thể tưởng tượng ra những tác dụng lớn lao như thế nào và những phản ứng hóa sinh mang lại cho não bộ do thiền định được duy trì trong một thời gian dài , vì trong khoa học người ta đã biết rằng sự luyện tập trong một thời gian ngắn bình thường cũng có tác dụng tạo ra thay đổi trong các đối tượng được thí nghiệm.

Các cuộc thí nghiệm ở WCLA Berkley vào năm 1964 cho thấy rằng các đối tượng thí nghiệm sau khi được cho tiếp xúc với một môi trường học tập phong phú đã phát triển những lớp võ não dày và nặng hơn, và hai chất enzyme của não cũng được ghi nhận là có tổng số hoạt động nhiều hơn . Chúng cũng sản sinh được những thân tế bào não lớn hơn.

Kiến thức thông thường cũng cho chúng ta biết rằng tập trung tư tưởng và nội tâm an tịnh cũng phát sinh các làn sóng. Trạng thái an tịnh này có thể được duy trì lâu dài nhờ phương pháp phản hồi sinh học (bio-feedback).

Các hoạt động tinh thần được biết là có ảnh hưởng đến việc sản sinh chất RNA, chất này có tương quan chặt chẽ với việc tổng hợp chất protein. Cả chất RNA lẫn các phân tử protein được cho là có liên quan đến trí nhớ đoãn kỳ và trường kỳ. Như vậy, trạng thái tinh thần trong lúc hành thiền có thể được xem như là có ảnh hưởng đến việc sản sinh các loại chất RNA và protein đặc biệt. Bác sĩ Penfield trong công trình nghiên cứu về vấn đề kích thích não bộ đã chứng minh rằng phương pháp kích thích não bộ bằng dòng điện có thể giúp con người nhớ đến các kinh nghiệm trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, hành giả với sức mạnh của việc tập trung tư tưởng có thể kích thích hoạt động của dòng điện trên bất cứ nơi nào của não bộ và giúp tăng cường trí nhớ. Vì các chúng sinh hữu tình đã hiện hữu từ thời vô thủy, ta có thể kết luận rằng đối với một vị đã chứng đắc Nhị Thiền thì việc nhớ lại các tiền kiếp có thể đạt được xuyên qua cơ cấu hoạt động này của não bộ.

Tam Thiền là một trạng thái trong đó hành giả an trú trong Xả ( xả niệm lạc trú) . Vị ấy quán sát các pháp sinh diệt với tâm hoàn toàn khách quan vô tư. Vị ấy đang ở trong một trạng thái năng luợng hoàn toàn quân bình. Vị ấy không cảm thấy quá căng thẳng cũng như quá thư giãn, và vị ấy hiện hữu như một phân tử đang ở trong một dạng năng lượng cơ bản. Trong trạng thái này, các tiến trình hoạt động của cơ thể con người đòi hỏi ít năng lượng nhất và con người đang đáp ứng chức năng hóa học quan trọng của sự sống, có nghĩa là giảm tình trạng rối loạn cơ thể đến mức tối thiểu. Hành giả trong trạng thái này đã đoạn trừ tâm bất an, lo âu và dao động.

Khi chứng đắc Tứ Thiền, hành giả an trú trong một trạng thái thuần tịnh, kết hợp với tỉnh giác và xả. Sau khi diệt khổ ưu, xả hỷ lạc toàn cả thân tâm, cuối cùng hành giả đạt đến một trạng thái hoàn toàn vô chấp thủ và giải thoát.( xả niệm thanh tịnh)

Tôi sẽ kết luận bằng một dẫn chứng liên hệ đến thiền định. Người ta biết rằng sự hiện diện của các calcium ions có ảnh hưởng đến việc truyền đạt tín hiệu của não bộ. Trong lúc hành thiền các làn sóng điện từ được phát sinh vào khoảng từ 7 đến 13 vòng mỗi giây. Nếu các làn sóng điện từ với tầng số này được dùng để kích thích não bộ thì từ các màng tế bào não sẽ phát sinh ra một chất calcium hổn hợp. Những cuộc thí nghiệm không gian gần đây với các phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài ngoài không gian đã tạo cho họ những kinh nghiệm mang tính chất tôn giáo hoặc tâm linh.

Số lượng gia tăng các calcium ions được thoát ra do quá trình phân hủy chất calcium của xương sẽ lưu thông trong mạch máu và như vậy có lẽ chúng sẽ đi đến não bộ.

Không có gì là không hợp lý khi kết luận rằng kinh nghiệm tâm linh của thiền giả và kinh nghiệm của phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài có thể bắt nguồn từ cùng một hiện tượng sinh lý có tên là sự thay đổi lượng calcium hổn hợp trong thần kinh hệ.

Tóm lại, tôi đã cố gắng chứng minh trong bài viết này rằng con đường giác ngộ vượt thời gian của Đức Phật là một con đường khoa học. Mục đích của Phật giáo và khoa học là khám phá ra qui luật của tự nhiên, và cuối cùng là để đạt đến mục tiêu đã định bằng cách áp dụng những kỹ thuật chính xác.

Đức Phật đã dạy : “Hãy đến và thấy”( Ehipassako !). Còn bức thông điệp của bài này là : Hãy Hành Thiền, Thực Nghiệm và Trải Nghiệm.

Source: Buddhism and Science,

Book edited by Dr Buddhadasa P. Kirthisinghe

(CÙNG DỊCH/TÁC GIẢ)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/08/2014(Xem: 58499)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
11/06/2014(Xem: 8130)
Một cuộc đối thoại hai ngày giữa các nhà khoa học, học giả và các hành giả tâm linh về chủ đề "Thiết lập bản đồ tâm thức" tại Kyoto, một cố đô của Nhật Bản. Arthur Zajonc, Chủ tịch Viện Tâm thức và Đời sống và Sakiko Yoshikawa, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kokoro, Đại học Kyoto, đã phát biểu giới thiệu ngắn gọn chương trình.
09/06/2014(Xem: 6137)
Đức Đạt Lai Lạt Ma (ĐLLM) viết cả chục cuốn sách, cuốn nào cũng được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Trong những cuốn đã đọc, tôi rất thích cuốn « Cả vũ trụ trong một hạt nhân » (The Universe in a single atom). Tôi thích vì quyển sách đó chứng tỏ tính ham học, sự hiểu biết vô cùng thông thái và lòng cởi mở vị tha của Ngài.
07/05/2014(Xem: 9486)
Thời đại của chúng ta là thời đại khoa học, văn minh của nhân loại đã tiến bộ vượt bậc. Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy. Nếu chúng ta đến với đạo Phật thuần túy bằng đức tin thì chỉ là bước đầu, bởi vì bản chất của đạo Phật là giác ngộ. Giác ngộ của đức Phật dưới cội bồ đề đã khai sinh ra Đạo giác ngộ, nên Phật tử càng không phải là người mê tối.
12/03/2014(Xem: 25120)
Trong một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phân xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo dục, chính khách…Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều vấn đề đời sống xã hội của người tham dự một cách thẳng thắn và có duyên.
09/03/2014(Xem: 29961)
Ajahn Chah sinh năm 1918 trong một ngôi làng phía Bắc Thái Lan. Ngài xuất gia sa di từ lúc còn nhỏ và trở thành một vị tỳ khưu năm hai mươi tuổi. Ngài theo truyền thống hành đầu đà của các sơn tăng trong nhiều năm; hằng ngày mang bát xin ăn, chuyên tâm hành thiền và đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp. Ajahn Chah hành thiền dưới sự chỉ dẫn của nhiều thiền sư danh tiếng
10/02/2014(Xem: 22505)
Lama Thubten Yeshe sinh năm 1935 tại Tây Tạng. Mới sáu tuổi, Ngài đã vào học tại Sera Monastic University ở Lhasa, một trong những tu viện lớn và nổi tiếng của Tây Tạng. Ngài học tại đây tới năm 1959
30/01/2014(Xem: 16937)
Bài viết này là của Tiến Sĩ Pinit Ratanakul. Ông tốt nghiệp Cao Học tại Đại Học Chulalongkom, Thái Lan và lấy bằng Tiến Sĩ tại Đại Học Yale, Tiểu Bang Connecticut, Hoa Kỳ. Ông là giáo sư triết và là giám đốc Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo tại Đại Học Mahidol, Thái Lan. Ông là tác giả của cuốn sách “Bioethics: An Introduction to the Ethics of Medicine and Life
12/01/2014(Xem: 11677)
Johan Galtung là Giáo sư Đại học Hawaii và được mời thỉnh giảng trên 30 Đại học nổi tiếng khắp thế giới. Ông còn là Giám Đốc của Transcend và Peace Research Institute, Olso. Với trên 50 ấn phẩm và 1000 công trình nghiên cứu khoa học về Hoà Binh ông đã nổi danh là người sáng lập cho lĩnh vực Peace Studies. Với những đóng góp to lớn này ông được nhiều giải thưỏng cao qúy. Tác phẩm chính trong lĩnh vực Phật học là „Buddhism: A Quest for Unity and Peace” (1993). Các tiểu tựa là của người dịch.
20/12/2013(Xem: 36628)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]