Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Định Phật Giáo Và Khoa Sinh Học

23/02/201322:15(Xem: 5685)
Thiền Định Phật Giáo Và Khoa Sinh Học

meditation_buddha1
THIỀN ĐỊNH PHẬT GIÁO và

KHOA SINH HỌC
(Buddhist Meditation and Bioscience)
Nguyên tác : Dr U. Aung Thein
Việt dịch: Trần Như Mai

Chúng ta cần ghi nhận một điểm thú vị là khi kiến thức khoa học về con người và vũ trụ càng gia tăng thì càng có nhiều bằng chứng được đưa ra để chứng minh giáo lý của Đức Phật là đúng. Phật giáo là con đường giải thoát do Đức Phật khám phá ra. Giáo lý đạo Phật được thể hiện qua Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Giải thoát bao hàm sự chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử.

Khoa học là việc nghiên cứu một cách khách quan những qui luật của tự nhiên để đưa ra những nhận định tổng quát và lời giải thích cho các hiện tượng đã được quan sát. Như nhà sinh lý học người Pháp Loeb đã nói :” Mục đích tối hậu của khoa học là để tiên đoán”.

Con đường giải thoát do Đức Phật dạy có thể được mô tả như một dường lối thực nghiệm và dựa trên kinh nghiệm hành trì. Cũng giống như trong khoa học, nhà nghiên cứu tiến hành từng bước một, thì trong Phật giáo, con người cũng tiến đến mục đích bằng cách luyện tập từ từ để từng bước đạt đến chánh tri kiến. Trong Phật giáo, nêu câu hỏi với các bậc tu hành không bị xem là thiếu lễ độ, vì đức tin mù quáng chẳng đưa đến đâu cả. Kiên trì tu tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp sẽ chuyển hóa con người để đạt đến tâm thanh tịnh cao thượng và tiến đến mức tột đỉnh là chấm đứt hoàn toàn vòng sinh tử luân hồi.

Bát Chánh Đạo được chia thành ba thành phần chính:

Phần thứ nhất là Giới , gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp,và chánh mạng.

Phần thứ hai là Định, gồm có chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Phần thứ ba là Tuệ, gồm có chánh tri kiến và chánh tư duy.

Trong Phật giáo, một sự kiện đựơc xem là nền tảng của giáo lý cho rằng tất cả sinh vật hữu tình là một tập hợp của ngũ uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thành tố này mang tính chất vô thường và lệ thuộc vào nhau, và xuyên qua nghiệp, chúng sẽ duy trì một quá trình vận hành tự động không bao giờ chấm dứt, đưa đến kết quả là một chuổi luân hồi sinh tử kể từ thời vô thủy và vẫn cứ tiếp tục cho đến khi có một phản ứng ngược lại có tác dụng vô hiệu hoá nó và đưa nó đến một trạng thái chấm dứt hoàn toàn hay sự giải thoát tối hậu.

Chúng ta hãy quan sát “con người ngũ uẩn” mà Đức Phật đã nói là :“Trong tấm thân dài sáu bộ này chứa đựng tất cả những bí ẩn và vấn đề của vũ trụ”.

Trong Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthāna) và Kinh Đại Niệm Xứ ( Mahāsatipatthāna) có nói rằng thân con người là một tập hợp của tứ đại gồm các chất lỏng và chất rắn. Một lần nữa, trong Kinh Mi-Tiên Vấn Đạo (Milinda Pañha), khi trả lời câu hỏi của Nhà Vua, Bậc Đại Giác đã so sánh thân con người như một tập hợp của các bộ phận rời và bày tỏ ý kiến rằng không có một cái gì gọi là một tổng thể hợp nhất cả.

Theo quan điểm hóa sinh và khoa giải phẩu học thì thân thể con người chỉ là một tập hợp các hệ thống hữu cơ trong đó những quá trình hóa học vẫn diễn biến liên tục. Nó cũng giống như “Cơ cấu trợ động” (Servomechanism) bởi vì, khi một bộ phận bị trục trặc thì toàn bộ hệ thống sẽ bị ảnh hưởng. Khả năng và khuynh hướng của cơ thể là luôn luôn tìm cách tái lập mức ổn định bình thường hay mức độ cơ bản được biết như là “ trạng thái quân bình tâm lý” ( Homeostasis).

Theo lời dạy của Đức Phật thì giữ cho thân và tâm ở trong một trạng thái quân bình là điều kiện tiên quyết để duy trì sức khoẻ thể chất, tình cảm và tinh thần rất cần thiết cho việc thực hành thiền định.

Trạng thái quân bình về thể chất, tình cảm và tinh thần đạt được là nhờ thực hành Giới, là nhóm ba thiện hạnh đầu tiên của Bát Chánh Đạo ( Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng). Trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), Giới được mô tả như là kiêng cử, tác ý, không phạm. Chướng ngại đối với Giới chính là sân hận, độc ác, giả dối, lo âu, ganh ghét, xảo trá, bất mãn, kiêu căng, ngã mạn, lười biếng, tham dục, miệng lưỡi buông lung, hạ liệt, không biết chế ngự các căn. Mục đích của Giới là để đối trị với những ác hạnh trên .

Bất cứ trạng thái tâm lý nào trong số các chướng ngại nêu trên cũng đều tạo ra sự thay đổi trong mức độ quân bình sinh hóa của cơ thể. Con người càng mất quân bình thì não bộ càng tiết ra nhiều hóa chất như là Acetylcholine, Serotonin, và Epinefrin . Những hóa chất này sẽ kích hoạt làm sản sinh nhiều hậu quả khác nhau trên các bộ phận của cơ thể như tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận, bộ tiêu hóa và các cơ quan sinh sản. Ví dụ, khi nỗi cơn thịnh nộ, tức giận hay dao động thì não bộ con người sẽ tiết ra chất Epinefrin làm gia tăng huyết áp, tăng nhịp đập của tim và tăng lượng khí oxy cần tiêu thụ.

Những trạng thái tâm lý thông thường khác mà chúng ta thường gặp là sợ hãi và lo âu. Khi con người ở trong trạng thái tâm lý như vậy thì dạ dày và đường ruột sẽ tiết ra một số lượng chất acid cao hơn bình thường, và nơi nào bị acid tấn công thì sẽ sinh ra chứng viêm loét niêm mạc.

Tình trạng căng thẳng tinh thần kéo dài được biết là sẽ làm tổn hại hệ thống tự động của não bộ, tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến tính nhu động của thực quản và làm xáo trộn bộ tiêu hoá và bài tiết. Kết quả là con người sẽ bị táo bón và tự tạo nên tình trạng ngộ độc cho chính mình, như vậy sẽ ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe thể chất, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó.

Ta có thể hiểu tại sao Đức Phật nhấn mạnh đến vấn đề thực hành Giới như là điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Hành thiền không thể nào thành công khi cơ thể, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó đang bị tổn hại. Người nào đã giữ Giới sẽ có thể thành công trong hành thiền, loại bỏ được những chướng ngại và có thể quán chiếu thực tại của các pháp tại và cuối cùng có thể đạt được giải thoát. Ba mục tiêu cao thượng ấy có thể đạt được trong bốn giai đoạn của Tứ Thiền.

Giống như trong khoa học, việc thành tựu một mục tiêu khoa học diễn ra từ từ và có phương pháp, cũng vậy việc thành tựu mục đích của Phật giáo qua thực hành thiền định cũng diễn ra từ từ, có thứ bậc và liên hệ chặt chẽ với các trạng thái sinh lý của cơ thể.

Áp dụng một vị trí tọa thiền vững chắc, an trú tâm vững chải không dao động và tập trung tư tưởng cao độ, là những điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Đức Phật đã hết sức ca ngợi pháp Quán Niệm Hơi Thở để thanh tịnh tâm mà nhờ đó chính Ngài đã chứng ngộ giải thoát.

Các nhà nghiên cứu hiện đại đã khám phá ra rằng các hành giả trong lúc hành thiền đã giảm mức độ hô hấp, mức tiêu thụ dưỡng khí cũng giảm khoảng 20% và mức thải thán khí cũng giảm.

Những tác dụng sinh lý khác cũng đã được chứng minh là việc giảm thiểu mức độ trao đổi chất trong cơ thể, việc giảm chất acid lactic trong máu đồng thời với việc gia tăng độ pH và việc giảm sút phản ứng co giật của da.

Bằng cách đoạn trừ các chướng ngại pháp sẽ đưa đến kết quả là một trạng thái an tịnh thân tâm, cùng với việc thực hành định tâm thật thiện xảo, hành giả sẽ chứng được Sơ Thiền ( First Jhāna). Đây là một trạng thái ly dục do hoàn toàn chế ngự được sắc giới. Bước chuyển tiếp sơ khởi này được xem như là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất mà hành giả cần đạt được trên con đường thiền định.

Sau khi chứng được Sơ Thiền, hành giả cố gắng chinh phục các cảnh giới của tâm. Nhị Thiền ( Second Jhāna) vận dụng sức mạnh của tập trung tư tưởng, đó là khả năng định tâm. Điều này được biết như là trạng thái nội tĩnh nhất tâm (Ekkāgathā).

Người ta có thể tưởng tượng ra những tác dụng lớn lao như thế nào và những phản ứng hóa sinh mang lại cho não bộ do thiền định được duy trì trong một thời gian dài , vì trong khoa học người ta đã biết rằng sự luyện tập trong một thời gian ngắn bình thường cũng có tác dụng tạo ra thay đổi trong các đối tượng được thí nghiệm.

Các cuộc thí nghiệm ở WCLA Berkley vào năm 1964 cho thấy rằng các đối tượng thí nghiệm sau khi được cho tiếp xúc với một môi trường học tập phong phú đã phát triển những lớp võ não dày và nặng hơn, và hai chất enzyme của não cũng được ghi nhận là có tổng số hoạt động nhiều hơn . Chúng cũng sản sinh được những thân tế bào não lớn hơn.

Kiến thức thông thường cũng cho chúng ta biết rằng tập trung tư tưởng và nội tâm an tịnh cũng phát sinh các làn sóng. Trạng thái an tịnh này có thể được duy trì lâu dài nhờ phương pháp phản hồi sinh học (bio-feedback).

Các hoạt động tinh thần được biết là có ảnh hưởng đến việc sản sinh chất RNA, chất này có tương quan chặt chẽ với việc tổng hợp chất protein. Cả chất RNA lẫn các phân tử protein được cho là có liên quan đến trí nhớ đoãn kỳ và trường kỳ. Như vậy, trạng thái tinh thần trong lúc hành thiền có thể được xem như là có ảnh hưởng đến việc sản sinh các loại chất RNA và protein đặc biệt. Bác sĩ Penfield trong công trình nghiên cứu về vấn đề kích thích não bộ đã chứng minh rằng phương pháp kích thích não bộ bằng dòng điện có thể giúp con người nhớ đến các kinh nghiệm trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, hành giả với sức mạnh của việc tập trung tư tưởng có thể kích thích hoạt động của dòng điện trên bất cứ nơi nào của não bộ và giúp tăng cường trí nhớ. Vì các chúng sinh hữu tình đã hiện hữu từ thời vô thủy, ta có thể kết luận rằng đối với một vị đã chứng đắc Nhị Thiền thì việc nhớ lại các tiền kiếp có thể đạt được xuyên qua cơ cấu hoạt động này của não bộ.

Tam Thiền là một trạng thái trong đó hành giả an trú trong Xả ( xả niệm lạc trú) . Vị ấy quán sát các pháp sinh diệt với tâm hoàn toàn khách quan vô tư. Vị ấy đang ở trong một trạng thái năng luợng hoàn toàn quân bình. Vị ấy không cảm thấy quá căng thẳng cũng như quá thư giãn, và vị ấy hiện hữu như một phân tử đang ở trong một dạng năng lượng cơ bản. Trong trạng thái này, các tiến trình hoạt động của cơ thể con người đòi hỏi ít năng lượng nhất và con người đang đáp ứng chức năng hóa học quan trọng của sự sống, có nghĩa là giảm tình trạng rối loạn cơ thể đến mức tối thiểu. Hành giả trong trạng thái này đã đoạn trừ tâm bất an, lo âu và dao động.

Khi chứng đắc Tứ Thiền, hành giả an trú trong một trạng thái thuần tịnh, kết hợp với tỉnh giác và xả. Sau khi diệt khổ ưu, xả hỷ lạc toàn cả thân tâm, cuối cùng hành giả đạt đến một trạng thái hoàn toàn vô chấp thủ và giải thoát.( xả niệm thanh tịnh)

Tôi sẽ kết luận bằng một dẫn chứng liên hệ đến thiền định. Người ta biết rằng sự hiện diện của các calcium ions có ảnh hưởng đến việc truyền đạt tín hiệu của não bộ. Trong lúc hành thiền các làn sóng điện từ được phát sinh vào khoảng từ 7 đến 13 vòng mỗi giây. Nếu các làn sóng điện từ với tầng số này được dùng để kích thích não bộ thì từ các màng tế bào não sẽ phát sinh ra một chất calcium hổn hợp. Những cuộc thí nghiệm không gian gần đây với các phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài ngoài không gian đã tạo cho họ những kinh nghiệm mang tính chất tôn giáo hoặc tâm linh.

Số lượng gia tăng các calcium ions được thoát ra do quá trình phân hủy chất calcium của xương sẽ lưu thông trong mạch máu và như vậy có lẽ chúng sẽ đi đến não bộ.

Không có gì là không hợp lý khi kết luận rằng kinh nghiệm tâm linh của thiền giả và kinh nghiệm của phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài có thể bắt nguồn từ cùng một hiện tượng sinh lý có tên là sự thay đổi lượng calcium hổn hợp trong thần kinh hệ.

Tóm lại, tôi đã cố gắng chứng minh trong bài viết này rằng con đường giác ngộ vượt thời gian của Đức Phật là một con đường khoa học. Mục đích của Phật giáo và khoa học là khám phá ra qui luật của tự nhiên, và cuối cùng là để đạt đến mục tiêu đã định bằng cách áp dụng những kỹ thuật chính xác.

Đức Phật đã dạy : “Hãy đến và thấy”( Ehipassako !). Còn bức thông điệp của bài này là : Hãy Hành Thiền, Thực Nghiệm và Trải Nghiệm.

Source: Buddhism and Science,

Book edited by Dr Buddhadasa P. Kirthisinghe

(CÙNG DỊCH/TÁC GIẢ)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 1506)
“Kiếp xưa ắt có nhân duyên, Nếu không ai dễ chống thuyền gặp nhau”. HT đã giới thiệu, trên 50 năm tôi rời khỏi Huế từ Tết Mậu Thân đi du hóa, tu học phương xa, luôn vọng về quê hương đất Tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của Tổ tiên ông bà, nơi đã có nhiều kỉ niệm của thuở ấu thơ tu học tại Huế, sinh hoạt tại Huế, trên 50 năm vắng mặt, chỉ có năm này với tuổi đã 87, năm nay Lễ Phật Đản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức tại Chùa Phật Ân, cử hành sớm vào ngày 12 vừa rồi
04/06/2024(Xem: 2725)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2274)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2500)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3024)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5926)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2197)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2335)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2786)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com