Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

35. Thần Thông Cảm Hóa Ngoại Đạo

15/03/201406:12(Xem: 22530)
35. Thần Thông Cảm Hóa Ngoại Đạo
Mot cuoc doi bia 02

Thần Thông
Cảm Hóa Ngoại Đạo






It hôm sau thấy thời tiết khô nhẹ, đức Phật bàn giao công việc ở Trúc Lâm cho một số các vị trưởng lão, ngài và đại chúng tỳ-khưu lại làm một chuyến du hành về phương bắc. Ngài lần lượt theo đường bộ hành thương mãi đến thị trấn phồn vinh Pāṭaligāma, vượt sông Gaṅgā đến Vesāli, ghé thăm Mahāvana. Tại Sảnh Đường Nóc Nhọn, đức Phật ở lại đây mấy hôm để giáo hóa chúng tăng ni hai viện. Ngài lại phải chế định tạm thời một số giới điều để đối trị những xấu ác phát sanh. Có những việc thật không đáng, nhất là tại ni viện, khi các trưởng lão ni về an cư tại Trúc Lâm. Ai ngờ có những cô ni lại tích trữ tỏi, tích trữ dầu ăn, tích trữ một số cao mỡ làm đẹp da, tích trữ dù, dép... Từ khi bà kỹ nữ Ambapālī được đức Phật cho phép hộ độ ni viện thì khuôn mặt và sinh hoạt ở đây có nhiều thay đổi. Hễ thấy ni chúng cần gì thì bà cho xe chở đến. Nhất là vải vóc vì chư ni ít khi có đủ năm y (1)để thay đổi. Thế là có người tích trữ vải, sử dụng rộng rãi cho mình rồi còn câu dụ tặng cho người khác để nhờ vả hoặc trao đổi chuyện gì đấy! Đôi khi chỉ là sai vặt hoặc giặt y bát giùm, đi bát giùm...

Dịp này, bà kỹ nữ Ambapālī xin được xuất gia tỳ-khưu-ni. Đức Phật đã đích thân làm lễ cho bà thọ cụ túc giới có sự tham dự đông đảo của các hàng trưởng lão. Bà khởi tâm cúng dường đặt bát suốt bảy ngày, đầy đủ những vật dụng phụ tùy đến tăng ni hai viện...

Rời Mahāvana, thấy Vesāli thịnh vượng, đời sống chư tăng ni đã đi vào ổn định, đức Phật lần lượt ghé qua tiểu bang Videha, Moriya, Mallā... thì gặp lại các trưởng lão Kāḷudāyi, Bhaddiya, Devadatta... đang du hóa ở vùng này. Đức Phật ân cần thăm hỏi. Thấy ai cũng sạm đen, phong trần nhưng toát ra sự trưởng thành, chững chạc. Đức Phật quan tâm Devadatta nhiều nhất vì ông ta tuy có ngũ thông, có một hội chúng đệ tử đông nhất nhưng chưa bước vào dòng thánh đạo.

- Đệ tử sẽ cố gắng, thưa đức Tôn Sư! Devadatta nở nụ cười có vẻ mãn nguyện – Tuy không thể so sánh với các vị huynh trưởng, nhưng đệ tử hoằng pháp cũng có được một chút lợi ích, được một vài thành quả khiêm tốn!

- Hãy nhớ đấy, Devadatta! Khi chưa vào dòng thì bất cứ năng lực thù thắng nào rồi cũng sẽ bị thối thất!

Lên đường rồi, đức Phật mới nói với hai vị đại đệ tử:

- Hãy tìm cách giúp đỡ Devadatta! Ông ta mà có đệ tử và đồ chúng đông chừng nào thì những kiết sử, tùy miên chúng sẽ khởi phát, sẽ duyên sanh chừng đó! Hiện tại ông ta đang tự đắc, tự mãn đấy!

Đức Phật mới đến được địa phận nước Koliya thì tin ngài sẽ trổ pháp lực thần thông đã bay đến Sāvatthi rồi! Mọi giới xôn xao bàn tán. Và cao độ nhất là sáu phái ngoại đạo từ Vương Xá lũ lượt theo chân đức Phật, qua Vesāli, kéo thêm đệ tử và chúng đồ ở đây, rồi rầm rộ lên phương Bắc. Chuyện đức Phật nói chuyện sẽ trổ pháp lực thần thông vào rằm tháng Āsāḷha(1)tại Sāvatthi trên cây “Kaṇḍamba” đã đến tai họ. Chuyện dễ hiểu thôi. Đức vua nói chuyện với vài viên cận thần thân tín, các vị này cũng chỉ nói nhỏ, nói lại với vài người quen - thế rồi, chuyện thêm mắm, thêm muối lan vào tai mọi người còn nhanh hơn gió chuyển. Một vài vị giáo chủ hoặc đệ tử lớn của họ với tâm địa không được tốt, sợ tổn hại uy tín cho giáo phái của mình nên đã tìm cách ngăn chặn. Khi nghe đức Phật sẽ trổ thần thông trên cây Kaṇḍamba, họ chưa biết rõ là cây gì nên đã cho một số thuộc hạ nhanh chân đến Sāvatthi liên lạc với các giáo phái ngoại đạo ở đây để nhờ họ tìm hiểu. Các vị hiền triết, học giả thông thái nói rằng, cả kinh thành Sāvatthi không có cái cây nào được gọi là Kaṇḍamba cả. Tuy nhiên, có một nhà ngôn ngữ học dè dặt và cẩn trọng nói rằng:

- Sa-môn Gotama là bậc thông tuệ. Tuy nhiên, tôi chưa được nghe chính xác qua lỗ tai của mình về cái từ ấy nên tôi chưa dám quyết đoán. Nếu đúng là Kaṇḍamba thì không có tên cây ấy, chủng loại, họ hàng cũng không. Nhưng nếu “gượng” mà chiết tự ra – thì ta có “kaṇḍa” và “amba”. Kaṇḍa có nghĩa là cong, là một phần, cọng, nhánh. Amba là cây xoài. Vậy Kaṇḍamba có thể là cây xoài cong đặc biệt nào đó hoặc một nhánh, một phần của cây xoài vĩ đại nào đó! Đây chỉ là một gợi ý thô thiển và què quặt, xin chư vị cứ nghiên cứu!

Kiến giải thận trọng của nhà ngôn ngữ học là đúng, là tốt nhưng đưa đến hậu quả vô cùng tai hại. Suốt thời gian sau đó, đồ chúng ngoại đạo đi lùng sục khắp kinh thành, hễ thấy cây xoài nào to lớn, cong, đặc biệt là chúng đốn bỏ, chặt phá hết. Nếu đụng đến vườn xoài của các danh gia vọng tộc, phú hộ, người tai mắt... là chúng xin mua, bồi thường hoặc hăm dọa nếu không thỏa nguyện. Hành động ấy quả thật là thô lỗ, đầy bạo lực ngu ngốc, đáng thương xót thay!

Cơn bão chặt xoài tràn qua kinh thành thì tăng chúng Kỳ Viên cũng bàng hoàng, ngơ ngác, không hiểu chuyện gì. Hai hàng cư sĩ áo trắng tìm đến Kỳ Viên thưa hỏi các vị trưởng lão nguyên nhân và sự thật. Hoàng tử Kỳ-đà và trưởng giả Cấp Cô Độc cũng cảm giác bất an! Một bậc có thắng trí và không còn lậu hoặc đành phải ân cần phủ dụ:

- Chư vị hãy an tâm. Không những an tâm mà còn sẽ được chứng kiến oai lực vô song của đức Chánh Đẳng Giác nhiếp phục ngoại đạo.

Mọi người thở phào.

Trưởng giả Cấp Cô Độc tò mò:

- Vậy cây Kaṇḍamba là cây gì? Có phải là những cây xoài mà chúng ngoại đạo đang chặt phá, đốn bỏ không?

- Ừ! Họ đúng một nửa! Cũng là cây xoài, nhưng cây xoài mà đức Phật sử dụng thần thông ấy, chưa có mặt trên thế gian này!

Nói vậy xong là vị ấy cười cười bỏ đi vì “thiên cơ bất khả lậu” mà!

Đức Phật và đại chúng đã ghé Kỳ Viên trước mùa an cư sáu ngày. Buổi sáng, ngài và tăng chúng đi khất thực một vòng quanh thành Sāvatthi (Xá-vệ), xem như không có gì xảy ra. Buổi chiều ngài thuyết pháp cho hai hàng cư sĩ tại giảng đường, buổi tối dành cho hội chúng tỳ-khưu. Khuya, canh hai, thiên chủ Đế Thích, Tứ đại thiên vương cùng với thiên chúng đoanh vây đến để nghe pháp. Khuya nữa là phạm thiên, phạm chúng thiên. Khu rừng Kỳ Viên sáng rực một góc trời, đêm này sang đêm khác như thế.

Khi ngoại đạo cho xây dựng từ nơi này sang nơi khác những cái đài cao rộng, bề thế với vẻ lộng lẫy đầy ngổ ngáo, phô trương... thì đức Phật không làm gì cả. Một vài đệ tử lớn của họ có vẻ nóng nảy, bồn chồn, hỗn láo, tuyên bố rằng: “Ông sa-môn Gotama bỏ cuộc rồi, không dám thi đấu thần thông! Vậy thì hãy cút xéo đi!” Một số vị tỳ-kheo còn phàm tục bực tức không chịu nổi, đến đảnh lễ chư vị trưởng lão, xin cho biết hư thực. Tôn giả Mahā Moggallāna (Đại Mục-kiền-liên) mỉm cười: “Các ông yên trí đi! Hãy nói với chúng rằng, đúng ngày rằm tháng sáu, đức Tôn Sư sẽ biểu diễn thần thông lực ở nơi cây Kaṇḍamba!”. “Nhưng chúng chặt hết rồi mà!” “Chưa, cây ấy đức Tôn Sư chưa trồng!” Nói vậy cũng bằng không! Họ đến vây quanh tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất). Tôn giả mỉm cười chỉ qua ngài Mahā Kassapa (Đại Ca-diếp); rồi cứ thế, các vị thượng thủ A-la-hán chỉ quanh. Cuối cùng, một vị sa-di A-la-hán có năm thắng trí, tuyên bố rằng: “Rất tiếc, đức Tôn Sư đã cấm chỉ, chứ trong hàng đệ tử, không phải một, không phải hai, mà hằng trăm, hằng ngàn đệ tử cháu chít của ngài cũng thừa khả năng hí lộng thần oai nhiếp phục ngoại đạo!”

Chiều hôm đó, đức Phật mới chính thức xác nhận:

- Đúng như con trai nhỏ tuổi của Như Lai đã nói. Vậy thì vào buổi sáng ngày mười lăm, trên cây Kaṇḍamba, trước cổng thành kinh đô Sāvatthi, Như Lai sẽ biểu diễn thần thông ở đấy!

Đến ngày, đức Phật và hội chúng tỳ-khưu vẫn đi trì bình khất thực như thường lệ. Sau khi đi qua một số ngả đường, vật thực vừa đủ dùng, đức Phật hướng về cổng kinh thành Sāvatthi. Trên và dưới các đài cao chỗ này chỗ kia, các giáo phái ngoại đạo tập trung dày đặc người. Còn hai hàng cư sĩ và dân chúng, sau khi đặt bát cho đức Phật và tăng chúng thì họ liền kéo nhau đi ở bên sau. Nhà nhà đóng cửa. Chợ không đông. Ôi! Cả rừng người. Cả biển người.

Khi đức Phật càng tiến dần từng bước chân một đến cổng kinh thành thì ngoại đạo và dân chúng càng tò mò, hồi hộp theo dõi. Vì rõ ràng, trước cổng kinh thành có hai cây xoài to thì ngoại đạo đã chặt rồi, hiện chẳng còn cây nào. Riêng vườn xoài của hoàng gia thì chúng không dám, vả lại, chúng không phải là trước cổng!

Đến gần cổng kinh thành, tại một khoảng trống, đức Phật dừng chân lại. Và cách đứng, cách ôm bát của ngài như có vẻ chờ đợi ai đó đặt bát? Và quả đúng thế. Sáng sớm nay, người trông coi vườn xoài của đức vua Pāsenadi (Ba-tư-nặc) phát hiện trong vườn xoài một trái xoài chín, to, rất đặc biệt, thơm lừng! Ông hái trái xoài ấy, đựng trong giỏ tre có lót rơm, định đem dâng cho đức vua Pāsenadi. Ông không biết việc gì đang xảy ra ở xung quanh. Khi hối hả bước ra khỏi vườn xoài thì trước mắt, ông trông chư tăng vàng rực như một đám mây vàng. Thấy đức Phật ôm bát đứng, ông ta suy nghĩ rất nhanh: “Nếu dâng cho vua thì mình được khen thưởng ngay tức khắc năm bảy đồng vàng gì đấy! Quý báu gì! Ăn là hết liền! Chi bằng dâng cho đức Phật mình sẽ được nương tựa phước báu nhiều đời!” Nghĩ là làm liền, ông thành kính đặt trái xoài quý báu kia vào bát cho ngài!

Trước hằng ngàn cặp mắt đang chăm chăm quan sát, đức Phật bảo tỳ-khưu Nāgita (1)thị giả trải tọa cụ giữa nền đất rồi an nhiên ngồi xuống tại chỗ. Ngài lại bảo tôn giả Sāriputta thông báo với đại chúng là tùy nghi thọ trai ngay tại đây. Đức Phật thọ dụng trái xoài, trao hạt xoài cho người làm vườn, ngài nói:

- Này Kaṇḍa! Trong cái giỏ của ông có một con dao, hãy dùng cái dao ấy, đến chỗ đất còn trống kia, đào một cái lỗ rồi đặt hạt xoài này vào đấy!

Không biết chuyện gì nhưng người làm vườn vẫn nghe lời. Sau đó, đức Phật rửa tay, rảy nước lên hạt xoài vừa gieo rồi nói:

- Này đại chúng tỳ-khưu! Người làm vườn này có tên là Kaṇḍa, ông ta đích thân gieo một hạt xoài (amba); vậy cây xoài này có tên là Kaṇḍamba. Và hãy xem! Điều Như Lai nói là đúng với sự thực! Như Lai sẽ hiển lộ thần thông lực ngay tại cây xoài Kaṇḍamba này!

Tin được lan đi, mọi người đổ xô quây quần lại, hóa ra cái cây có tên Kaṇḍamba là như thế này đây! Các vị có thắng trí thì do biết rồi nên họ chỉ mỉm cười. Riêng chư tăng không có thắng trí thì tò mò, ngạc nhiên, chăm chú nhìn! Đức vua Pāsenadi mấy hôm trước cũng đã nghe tràn tay về chuyện chặt xoài; và triều thần cũng đã bàn tán về câu chuyện của sáng hôm nay. Thế là, khi đức Phật tuyên bố về tên cây xoài thì đức vua Pāsenadi cùng các quan quân hầu cận cũng đã đứng chật vòng trong, vòng ngoài xem chuyện lạ.

Ngay lúc ấy, hạt xoài nẩy mầm, đất nứt, một chồi cây trắng nõn vươn lên, gặp ánh nắng nó trắng xanh, xanh non, xanh biếc... vươn lên, thành cây, có cành, có nhánh, có lá xanh mơn mởn, xanh nhạt, xanh đậm. Rồi cứ thế, trước mắt mọi người, cây xoài chợt biến hóa như trò ảo thuật. Cây xoài đã lên cao chừng 50 cùi tay, cội cành gân guốc... to lớn chưa từng thấy; rồi nó đơm hoa, nẩy trái dầy đặc, chín mọng, thơm lừng cả một vùng!

Cả không gian lặng ngắt, rồi tiếng mừng vui la hét rầm trời: Mọi người tán thán, ca tụng thần thông lực của đức Thế Tôn! Đức vua Pāsenadi bước ra, chắp tay xá lễ:

- Nghe tiếng sa-môn Gotama đã lâu nay tôi mới được hân hạnh diện kiến ngài - Chăm chú nhìn đức Phật một hồi, đức vua mỉm cười tiếp - Nghi dung, tướng mạo của ngài, đẹp quá, cao sang, quý phái quá, phải là hiện thân một đức Chuyển luân Thánh vương mới đúng!

- Đại vương đã quá khen! Rồi chỉ cây xoài, đức Phật tiếp – Bao nhiêu cây xoài lớn trong kinh thành, một số người thiểu trí đã chặt phá hết, nay Như Lai sẽ tặng lại cho đại vương, kinh thành, quốc độ một gốc xoài quý nhất, ngon thơm nhất có tên là Kaṇḍamba; hãy nên gầy giống nó để ươm trồng các nơi, đem lại lợi lạc cho nhiều người, cho các giai cấp, cả giới cùng đinh trong xã hội nữa, không nên phân biệt vì họ cũng đều là thần dân của ngài, thưa đại vương!

Đức vua và triều thần đều cảm kích, cung kính gật đầu, tuân mệnh.

Chuyện kể rằng, sau đó, tại cây xoài này, rất nhiều cận sự nam nữ hai hàng xin phép đức Phật được sử dụng thần thông, như cận sự nam Cūla Anāthapiṇḍika (Em ruột của trưởng giả Cấp Cô Độc), cận sự nữ Gaharaṇīnandamātā - đều là bậc Bất Lai (Anāgāmī - A-na-hàm) nhưng đức Phật không cho phép! Rồi sau đó, đức Phật đã sử dụng thần thông làm một chiếc cầu bằng ngọc nằm vắt ngang giữa hư không, biểu diễn thần thông biến hóa(1), thần thông Yamaka(2), thần thông Lokavivaraṇa(3), và cuối cùng là thần thông với hào quang sáu màu rất lạ lùng, rất diệu kỳ, cũng chỉ năng lực của bậc Toàn Giác mới thực hiện được!(1)Chúng ngoại đạo thấy oai lực vô biên, vô tận, bất khả tư nghì của đức Phật, thật không có chỗ nào để lòe bịp được nữa; nên họ đã lẳng lặng xếp cờ, im trống rồi cũng lẳng lặng giải tán, rút lui. Hai hàng cận sự nam nữ thì họ hí hửng, hãnh diện, mừng vui ra mặt, đem câu chuyện chứng kiến tận mắt ra khoe với láng giềng, quyến thuộc, bằng hữu. Chư phàm tăng thấy mình tăng trưởng thêm đức tin. Quần chúng thì hẹn nhau đến quy giáo với giáo đoàn nhiều thần thông, lắm oai lực, có vị giáo chủ sa-môn Gotama vô song! Riêng đức vua Pāsenadi lẳng lặng đến gần đức Phật, hoan hỷ thốt lên:

- Quốc độ này xin được hân hạnh chào ngài!

Đức Phật tế nhị nắm tay đức vua:

- Sau này, Như Lai còn phải cậy nhờ đến uy đức của một bậc minh quân, vì lợi lạc, vì hạnh phúc, vì sự an vui cho nhiều người!

Đức vua Pāsenadi khách sáo nói:

- Thật không dám đâu, thưa ngài!

Trong lúc ấy, thế gian không biết chứ thiên chúng, thiên vương, phạm chúng, phạm thiên... ngự đầy đặc cả không gian tấu nhạc, tung hoa, rải hoa.. hoan hỷ cúng dường hiện tượng hy hữu.



(1)Tăng 03 y, nhưng ni phải 05 y: Nội, ngoại, lót ( samkacchika - yếm), y tắm và y hai lớp để đắp.

(1) Khoảng tháng 6, 7 ta.

(1) Đức Phật có 5 thị giả chưa chính thức thay đổi nhau, đó là Nāgasamāla, Nāgita, Sunakkhatta – hoàng tử dòng vua nước cộng hòa Licchavī - Sāgata, Meghiya. Tôn giả Ānanda chỉ được đề cử chính thức sau hạ thứ 20 tại Kỳ Viên đại tịnh xá.

(1)Trên chiếc cầu ngọc, ngài kinh hành qua lại, lần lượt hiện ra một vị đang đi, một vị đang thuyết pháp, hai vị đang vấn đáp, một vị đang tọa thiền, một vị đang nằm nghỉ nghiêng lưng, một vị đang đưa tay sờ mặt trời, mặt trăng. Rồi thoáng chốc, hằng trăm ngàn vị Phật với những oai nghi hoàn toàn khác nhau đồng hiện hữu...

(2)Tức là thần thông song đôi, song hành. Thần thông này chỉ có vị Chánh Đẳng Giác mới thực hiên được, vì trong một lúc phải nhập định hai đề mục nước và lửa một lần. Khi hiển lộ, thân trên tỏa lửa, thân dưới tuôn nước, và ngược lại. Hoặc mắt trái là lửa, mắt phải là nước và ngược lại.Lỗ mũi trái phun lửa, lỗ mũi phải phun nước, và ngược lại. Tương tợ thế là vai phải, vai trái, tay phải, tay trái, chân phải, chân trái, mười ngón tay, mười ngón chân, lông chân...

(3)Tức là một loại thần thông mở ra cho mọi người nhìn thấy tất cả thế giới không ngăn ngại. Theo chú giải, sau khi đức Phật nhập định đề mục màu trắng (odāta), rồi với năng lực đi đôi với nguyện lực như ý muốn: Tất cả thế giới bên trên, từ cõi người đến cõi phi tưởng, hiện ra rõ mồn một. Cõi người nhìn thấy tất cả các cõi trên và ngược lại, các cõi khác cũng y như thế. Mọi sinh hoạt, chánh báo, y báo ở mỗi nơi; rồi lâu đài, dinh thự, hồ nước, vườn hoa, xe kiệu, lạc thú như thế nào đều trông thấy cả. Các cõi dưới, bốn khổ xứ,nhất là 08 tầng địa ngục chính và phụ; những khổ hình đồng sôi, vạc dầu, hố đao, chậu máu, cưa xẻ... quỷ sứ gì gì cũng nhìn thấy như ở trước tầm mắt. Và các cõi khác nhìn thấy nhau cũng y như thế.

(1)Hào quang màu xanh – tỏa ra từ tóc của ngài. Hào quang màu vàng – tỏa ra từ màu da và tròng mắt. Hào quang màu đỏ - tỏa ra từ máu và thịt. Hào quang màu trắng - tỏa ra từ xương và răng. Hào quang màu hồng - tỏa ra từ hai lòng bàn tay và hai lòng bàn chân. Hào quang tổng hợp năm màu chói sáng rực rỡ (Pabhassara) - tỏa ra từ mỗi sợi lông, mỗi móng tay, móng chân!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2022(Xem: 13928)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12317)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6515)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8692)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7724)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20124)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16594)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11625)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12094)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14958)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567