Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Tu Hạnh Chó Và Hạnh Bò

05/11/201321:25(Xem: 29169)
20. Tu Hạnh Chó Và Hạnh Bò
mot_cuoc_doi_bia_3



Tu Hạnh Chó Và Hạnh Bò



Trên đường về quốc độ Koliyā, đức Phật và đại chúng dừng chân tại thị trấn Haliddavasana. Ở đây có rất nhiều tu sĩ theo phái lõa thể. Đặc biệt là lõa thể Punna Koliyāputta tu theo hạnh con bò, được gọi là Ngưu hành giả; lõa thể Seniya tu theo hạnh con chó, được gọi là Cẩu hành giả.

Thấy đức Phật và chư tăngi, một hội chúng đông đảo đi trì bình khất thực vàng rực các ngả đường; và dân chúng tín mộ chờ chực nơi này nơi kia để đặt bát cúng dường, lòng Ngưu hành giả nôn nao, nói với bạn là Cẩu hành giả:

- Tin truyền, đấy là một vị Chánh Đẳng Giác đang chói sáng khắp thế gian. Ta hãy cùng đến chiêm bái ngài, sau đó xin vài lời chỉ giáo.

Lúc ấy, cả hai đang ở trong một cánh rừng ở ngoại ô. Cẩu hành giả ngần ngại:

- Đức Phật ấy và tăng chúng ấy theo bạch tịnh y, sạch sẽ và cao sang quá, ta xuất hiện như thế này có tiện chăng?

Ngưu hành giả tập tiếng bò cười, rống lên như bò cười rồi nói:

- Chúng ta đều đi bằng bốn chân thì “vật xấu” ấy nó nằm bên dưới, có ai thấy đâu? Vả lại, đã là chó thì phải tư duy như chó, quan niệm như chó, ông bạn chưa thấy vô ngại được nên còn rơi rớt, chấp thủ tư duy và quan niệm của loài người rồi đấy!

Cẩu hành già cũng tập tru như chó, nên tru một tràng, sủa vài ba tiếng rồi cãi lại:

- Ông bạn cũng thế thôi, đã theo được hạnh “ngưu hành giả” một cách triệt để đâu?

Nói thì nói vậy nhưng cả hai, sau khi rời rừng, mỗi người lấy một bó lá cột quanh thắt lưng rồi họ cùng đi bằng bốn chân đến yết kiến đức Thế Tôn.

Lúc ấy, đức Phật đã thọ thực xong, đang ngồi tịnh chỉ dưới gốc cây ven lộ.

Lõa thể Punna Koliyāputta, tức là Ngưu hành giả đến đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi một bên. Lõa thể Seniya, tức Cẩu hành giả không đảnh lễ, chỉ cất lời thăm hỏi rồi ngồi một nơi phải lẽ.

Ngưu hành giả cất tiếng nói trước:

- Bạch đại sa-môn! Tôi được nghe đại sa-môn có nhiều thắng trí, tuệ trí, minh trí biết khắp ba cõi, thấy suốt nghìn đời. Vậy xin đại sa-môn cho biết, là bạn tôi đây, Cẩu hành giả, đang hành trì theo hạnh con chó, là một hạnh khó hành, không phải ai cũng hành được...

Đức Phật gật đầu:

- Ừ, vậy hãy kể cho Như Lai nghe?

- Bạn tôi đây đi bằng bốn chân, bò lết hoặc chạy đều bằng bốn chân. Nếu có ngồi thì cũng chỉ ngồi hai chân sau còn hay tay thì chống dựng phía trước. Lúc nằm thì nằm sấp trên đất, hai tay úp ở phía trước như chó. Đại tiện, tiểu tiện đều được tập tành cam go như kiểu chó. Ăn thì chỉ ăn những vật người ta quăng bỏ trên đất, còn uống thì liếm liếm, táp táp bất cứ vũng nước, hố nước nào có sẵn bên đường. Nói tóm lại, là Cẩu hành giả, bạn tôi, từ tứ oai nghi, ăn uống, đại tiểu tiện đều cố hành trì như chó trong một thời gian dài, rất công phu, rất kiên nhẫn, rất tinh cần. Vậy chẳng hay, trong tương lai, vận mạng của bạn tôi thế nào, tức là sanh thú, cảnh giới trong mai hậu sẽ như thế nào, thưa ngài đại sa-môn?

Đức Phật nhíu mày lại:

- Ông đừng hỏi như vậy nữa, có được không, này Punna Koliyāputta!

- Không, không thể dừng câu hỏi được, xin ngài đại sa-môn cho biết sanh thú, cảnh giới? Tại sao vậy? Tại vì công phu khó khăn, kiên nhẫn và tinh cần bất thối như thế, chắc phước báu sẽ tối thượng chứ?

Đức Phật đã không muốn trả lời, nhưng vì Ngưu hành giả nằn nì lần thứ hai, lần thứ ba, đức Phật đành phải nói ra sự thật:

- Này, Punna Koliyāputta! Vậy thì hãy nghe Như Lai xác chứng sự thật như sau: Người nào hành trì hạnh con chó một cách triệt để, nghĩa là hoàn toàn viên mãn theo hạnh con chó thì giới, uy nghi, tâm và trí của người ấy cũng phải hoàn toàn viên mãn như thế!

- Vâng, tôi đã hiểu.

Đức Phật tiếp tục:

- Nếu hành trì giới viên mãn như chó, hành trì uy nghi viên mãn như chó, hành trì tâm viên mãn như chó, hành trì trí viên mãn như chó thì sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sẽ cộng trú với loài chó, thân hữu với loài chó, dòng chủng của loài chó, không sai, không trật vậy.

Cẩu hành giả đang ngồi một bên, nghe vậy theo thói quen, sủa gâu gâu... rồi khóc rống lên...

Đức Phật cất giọng như tiếng chuông ngân:

- Chưa thôi đâu, này các vị lõa thể. Cõi địa ngục thường dành cho những tâm địa độc ác, bạo tàn do tâm sân, tâm sát. Nhưng ở địa ngục cũng có những cõi tối tăm, đầy đặc ngu si cả triệu triệu năm dành cho những người tà kiến. Nếu người hành trì theo hạnh loài chó, lại chấp chặt quan điểm rằng: Do giới này, do uy nghi này, do tâm này, do trí này, do phạm hạnh này, ta sẽ thành vị chư thiên này hay chư thiên khác! Thì tức khắc, người ấy sẽ đọa xuống cõi địa ngục nêu trên. Nói tóm lại là chỉ có hai cõi: Không địa ngục thì bàng sanh, không bàng sanh thì địa ngục!

Trong lúc Cẩu hành giả nước mắt ròng rã, sụt sùi, giọt ngắn giọt dài cảm thương cho sinh mệnh tương lai của mình thì Ngưu hành giả lại nói:

- Ông bạn sao chưa sáng mắt ra mà còn khóc? Đức đại sa-môn khẳng định rằng: Nếu viên mãn hạnh con chó thì cái quả tựu thành chắc chắn sẽ là loài chó. Nếu không tựu thành, chấp chặt tà kiến thì sanh vào cõi địa ngục tăm tối cả triệu triệu năm đấy!

Lấy tay quệt nước mắt nước mũi cho khô ráo, Cẩu hành giả chợt chấp tay thưa:

- Bạch đại sa-môn! Tôi khóc như vậy không phải là khóc vì những câu nói của ngài, vì những xác chứng như thực của ngài. Tôi khóc, tôi tủi thân là vì tôi tiếc. Tôi tiếc rằng là cái hạnh như con chó này, tôi đã gian lao, vất vả, kiên trì, nỗ lực trong một thời gian rất dài. Bây giờ, tất cả chỉ còn là công cốc. Mọi công phu đã trôi tuột tất cả...

Nghỉ hơi một lúc, Cẩu hành giả nói:

- Còn bạn tôi, Ngưu hành giả sẽ như thế nào, thưa ngài đại sa-môn?

Đức Phật tỏ vẻ bi mẫn:

- Thì cũng tương tợ như ngươi vậy thôi, này Seniya! Nếu giới viên mãn như bò, uy nghi viên mãn như bò, tâm viên mãn như bò, trí viên mãn như bò - thì sẽ cộng trú với loài bò, thân hữu với loài bò, đồng chủng của loài bò. Còn nếu chấp chặt tà kiến mong được sanh thiên thì sẽ đọa địa ngục tối tăm ngu si không sai, không khác!

Đến phiên Punna Koliyāputta rống lên như bò rồi khóc lóc, sụt sùi, nước mắt tuôn rơi lã chã. Cũng tương tợ như Seniya, ông khóc là vì tiếc cho công phu Ngưu hành giả quá lâu ngày, bây giờ chợt trống rỗng không còn gì!

Lát sau, lấy lại sự tỉnh táo, cả hai đồng xin đức Phật thuyết pháp một đề tài liên hệ để họ hy vọng từ bỏ được hai cái hạnh bò, hạnh chó ngu si này.

Đức Phật, sau đó đã tùy thuận giảng về các loại nghiệp. Ngài đã rộng rãi nói đến bốn loại nghiệp, đấy là nghiệp đen, nghiệp trắng, nghiệp đen trắng, nghiệp không đen không trắng, chấm dứt các nghiệp(1). Nghiệp đen là nghiệp xấu ác, tổn hại mình và người sẽ đưa đến đau khổ, thống khổ; là cảnh giới của tứ ác đạo. Nghiệp trắng là nghiệp lành tốt, lợi ích cho mình và người sẽ đưa đến hạnh phúc, an vui; là tất cả các cảnh trời sắc giới và vô sắc giới. Nghiệp đen trắng là nghiệp xấu ác có lẫn lộn lành tốt sẽ đưa đến lẫn lộn đau khổ và an vui là cõi người. Nghiệp không đen không trắng là nghiệp chấm dứt các nghiệp hàm chỉ tứ thánh đạo quả và Niết-bàn...

Sau thời pháp, hai lõa thể tà mạng ngoại đao sáng mắt, xin được quy y và xin được sống đời xuất gia phạm hạnh. Đức Phật nói, phải ở bốn tháng biệt trú để chư vị trưởng lão xem xét tánh hạnh và xem có thay đổi được tri kiến lầm lạc cũ hay không, sau đó mới được thọ đại giới. Cả hai thành khẩn và hoan hỷ xin được biệt trú bốn năm để gột rửa, tẩy rửa cho sạch sẽ tư tưởng chó và bò còn tồn đọng trong tâm tưởng...

Đức Phật chấp thuận. Sau đó ngài bảo rằng, hãy tắm rửa, cạo bỏ râu tóc, ăn mặc như người cư sĩ áo trắng đến làm công quả tại Kỳ Viên hoặc Trúc Lâm tịnh xá để tích lũy một ít công đức trong thời gian chờ đợi. Họ vâng mệnh nhưng có vẻ hơi lúng túng, hổ thẹn khi đứng lên... Tôn giả Mục-kiền-liên tâm ý linh thông, ngài đã đến một gia chủ giàu có trong thành, kể lại sự việc và đã xin cho hai người hai bộ áo quần của người cư sĩ, ngài trao cho họ rồi mỉm cười nói:

- Còn biết tàm, quý(1)là tốt rồi đó, hai ông bạn! Hãy đi xuống suối, tắm rửa, mặc áo quần vào rồi hẵng lên đường.

Nhiều tiếng cười xung quanh rộ lên, vui vẻ, hỷ xả.

Cả hai, Ngưu hành giả và Cẩu hành giả đi rồi mà đại chúng còn bàn tán xôn xao mãi. Sao lại tự hành thân hoại thể và tu hành một cách ngu si như thế? Tu như chó, tu như bò mà lại đòi được sanh thiên?

Tôn giả Sāriputta gật đầu:

- Các bạn nói đúng! Tuy nhiên, nhờ các bạn đang sống trong giáo pháp quang minh, sáng sủa nên mới biết được, mới thấy được như thế chứ thế gian tối tăm này, phần đông, trong mắt họ nhiều cát bụi lắm, không dễ gì thấy biết được đâu!

Một vị thắc mắc hỏi:

- Hai tà mạng ngoại đạo này, sau này, họ tu tập có được gì không, tôn giả?

Tôn giả cười nhẹ:

- Khi đức Tôn Sư đã tạo duyên rồi, thì nhanh hay chậm, họ cũng đến được bến bờ bình yên thôi, các bạn!

Một vị cất giọng khôi hài:

- Hai vị đại nhân, đại nhân bò và đại nhân chó này, phước đức trăm ngàn đời mới gặp được đức Tôn Sư chúng ta!



(1)Do trình độ thấp thỏi của các tà mạng ngoại đạo - đức Phật phải thuyết cái vô tạo tác, vô hành là nghiệp không đen, không trắng cho họ dễ hiểu.

(1)Tàm (hiri), quý (ottapa) - hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2144)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18574)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14165)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12471)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6654)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8790)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7806)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20273)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16686)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11748)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567