Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu sơ lược về tiếng Phạn

08/04/201319:33(Xem: 18148)
Giới thiệu sơ lược về tiếng Phạn

Bộ môn Cổ ngữ

Giới thiệu sơ lược về tiếng Phạn

TT Thích Nguyên Giác

Tiếng Phạn là ngôn ngữ cổ nhất trong họ ngôn ngữ của người Aryan Ấn Độ, một chi nhánh của họ ngôn ngữ Indo-Iranian thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Nó phát triển về hướng Đông và đã hình thành một nền văn học lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc thuộc miền Đông Nam châu Á như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Nam Dương, Phù Nam, Chiêm Thành v.v... Bằng tiếng Phạn, ta có những tác phẩm văn học lớn như RigVeda, Skauntalà của Kàlidasa, các bộ sử thi như Mahàbhàrata, Ràmayàna,những tác phẩm triết học như Brhadupanisad, Samkhyakàrikà, Vaisesikakàrikà, các tác phẩm ngữ học của Pànini và Patanjali v.v... và đặc biệt những kinh điển Phật giáo nổi tiếng đã được nhiều dân tộc trên thế giới học tập và truyền dịch. Cho nên, nói đến tiếng Phạn là nói đến văn học, triết học, khoa học kỹ thuật của Ấn Độ cổ đại và trung đại.

Theo hiểu biết hiện nay, những từ tiếng Phạn đầu tiên xuất hiện trong một văn bản tiếng Hit-ti dạy về thuật cưỡi ngựa cách đây 3.500 năm, được tìm thấy ở vùng Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Từ vùng đất Tây Á này, những người nói tiếng Phạn tiến về bình nguyên sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges), họ mang theo các bài thơ tế thần của tổ tiên đồng thời sáng tác thêm những bài mới phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng. Những bài thơ này tập thành các bộ Vệ Đànguyên thủy dưới dạng tiếng Phạn cổ. Bộ xưa nhất của nó là Rigvedađược hình thành vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Tây lịch. Bài thơ tế thần sớm nhất được biết đến hiện nay chậm lắm là vào khoảng năm 1000 trước TL. Tại những bình nguyên ấy, họ hình thành những nước cộng hòa khác nhau, cho đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây lịch, thời Đức Phật (563-483 trước TL), vẫn còn 16 nước cộng hòa nổi tiếng với nền văn học Bramana và Upanisad, bộ luật Manu và các tác phẩm ngữ học như Astàdhyàyi. Sự ra đời của những công trình văn học này trước hết xuất phát từ quá trình ảnh hưởng qua lại giữa tiếng Phạn và các thổ ngữ của cư dân bản địa trong điều kiện chưa có chữ viết và việc truyền thừa chỉ dựa vào phương tiện truyền khẩu duy nhất. Điều này khiến các bộ Vệ Đàbị thay đổi ít nhiều, và dần dần trở nên khó hiểu, dẫn đến nhu cầu phải có những giải thích về âm học, ngữ nghĩa cùng các quy định về cú pháp. Sự ra đời của tác phẩm Astàdhyàyi của Pànini đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử tiếng Phạn, giai đoạn hình thành tiếng Phạn tiêu chuẩn mà người phương Tây thường gọi là tiếng Phạn cổ điển (Classical Sanskrit) để phân biệt với tiếng Phạn thời Vệ Đà (Vedic Sanskrit).

Đến khi Asoka (268-233 trước TL) thống nhất toàn bộ Ấn Độ, ông đã sử dụng mẫu tự Bràhmi và Kharosthi để khắc lên bia đá những sắc lệnh của mình. Thế là tiếng Phạn lần đầu tiên được ghi nhận xuất hiện tại Ấn Độ bằng văn bản và chữ viết. Nhưng phải đến thời vua Rudradamàn (thế kỷ thứ II sau TL) của vương triều Saka, một văn bản hoàn chỉnh bằng tiếng Phạn mới xuất hiện và ngày nay đã tìm thấy.

Nhờ sự đỡ đầu chính trị từ những người cầm quyền có gốc nước ngoài ở phía Tây Ấn Độ từ những thời xa xưa, sau đó lại được vương triều Guptas và giai cấp mới ksatriya dùng làm ngôn ngữ chính thức, tiếng Phạn dần dần trở thành ngôn ngữ thống trị trong các lãnh vực bi ký, thi ca, tiểu thuyết, triết học, hành chánh, y học, toán học, kỹ thuật v.v... trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Tây lịch, để hình thành nên một nền văn học lớn của Ấn Độ.

Tuy nhiên, tiếng Phạn tiêu chuẩn tuân thủ theo những quy tắc ngữ pháp do Pànini trình bày thường chỉ dành riêng cho học thuật, hành chánh, còn trong quần chúng lại thông dụng một dạng tiếng Phạn địa phương có những khác biệt so với các quy tắc do Pànini trình bày ở các mức độ khác nhau. Loại Phạn ngữ này thường được gọi là Phạn ngữ anh hùng ca, Phạn ngữ hỗn chủng Phật giáo, Phạn ngữ địa phương v.v... được tìm thấy trong hai bản anh hùng ca MahàbhàratàRàmayàna, cũng như trong các kinh điển của Phật giáo, Kỳ Na giáo, và một số bia ký.

Tryền thống của người Ấn Độ coi tiếng Phạn là do Phạm Thiên tạo ra, như Đại Bát Niết Bàn kinh8 và 26, Đại Đường Tây Vức ký 2 v.v... chép lại. Khi mới truyền vào Trung Quốc, tiếng Phạn bị coi là tiếng của người rợ Hồ (Hồ ngữ). Mãi đến thời Ngạn Tôn (557-610), một tác gia lớn của Phật giáo Trung Quốc, tiếng Phạn mới được chính thức gọi là Phạn ngữ. Vì là tiếng do Phạm Thiên tạo ra, nên chữ viết được gọi là Devanàgarì, có nghĩa là chữ viết của thành phố thiên thần, gọi tắt là mẫu tự Thiên thị.

Người Việt chúng ta là một trong những dân tộc tiếp xúc tiếng Phạn khá sớm, đặc biệt là vùng phía Namtổ quốc nơi mà vào thời Hùng Vương đã hình thành một nhà nước Chiêm Thành. Vương quốc này không những đã dùng tiếng Phạn làm chuyển ngữ để viết các bia ký của dân tộc họ, mà còn dùmg làm mẫu tự để ghi lại tiếng nói của họ. Theo các sử liệu được biết đến hiện nay, vào khoảng thế kỷ thứ II hoặc III trước Tây lịch, Chử Đồng Tử đã đến học đạo với một nhà sư người Ấn Độ tên là Phật Quang tại núi Quỳnh Viên ở Cửa Sót (Hà Tĩnh). Đến cuối thế kỷ thứ II sau TL, Khâu Đà La người Tây Vức cũng đã đến Giao Châu dạy đạo cho Tu Định và Man Nương, lập nên hệ thống Tứ pháp nổi tiếng ở Bắc Ninh. Rồi đến giữa thế kỷ thứ III có Khương Tăng Hội và Đạo Thanh. Khương Tăng Hội chú giải An ban thủ ý kinhdo An Thế Cao dịch thì hẳn phải biết tiếng Phạn. Còn Đạo Thanh đệ tử của Khâu Đà La nổi tiếng giỏi tiếng Phạn và là người đã bút thọ kinh Pháp Hoa tam muộido Chi Cương Lương Tiếp dịch. Những thế kỷ kế tiếp đều có các nhà sư ở Tây Vức đến như Ma Ha Kỳ Vực, Ma Ha Đề Bà, Tỳ Ni Đa Lưu Chi v.v... Chính Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch kinh Tổng trì tại Giao Châu và lập nên dòng thiền Pháp Vân tại ngôi chùa cùng tên. Vào thế kỷ thứ VII, nhiều nhà sư Việt Nam đã qua Ấn Độ chiêm bái và học tập, trong đó nổi bật nhất là Đại Thừa Đăng, người về sau đã cộng tác với Huyền Trang trong việc dịch kinh tại dịch trường chùa Từ Ân ở Trường An. Ông để lại một số tác phẩm như Câu xá luận ký, Đại thừa bách pháp minh môn luận chú v.v...

Đến kỷ thứ X, bài chú Phật đỉnh tôn thắng (Buddhosnisadhvaja) bằng tiếng Phạn đã được Đinh Liễn và vua Lê Đại Hành cho khắc lên cột đá nhiều lần. Đây là bản kinh khắc xưa nhất của dân tộc ta hiện nay tìm thấy được. Vào thời kỳ này, theo Thiền uyển tập anh, còn có nhiều nhà sư rất thông thạo tiếng Phạn như Mahàmàya, Sùng Phạm (1004-1087). Đến thế kỷ XIII, có Bồ Đề Thất Lỵ (Bodhisrì) đến nước ta và đã dịch các bài chú kinh Lăng Nghiêmtừ chữ Phạn ra chữ Hán theo yêu cầu của vua Trần Nhân Tông. Hiện nay người ta đã tìm thấy được bản in ở thế kỷ XVIII của bản dịch này.

Trong những thế kỷ kế tiếp sau đó, có một số tác phẩm đề cập đến tiếng Phạn qua âm Hán, như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩacủa Pháp Tính (1470?-1550), một quyển từ điển Hán Việt trong đó đã ghi chú một số từ chữ Phạn âm Hán như Đồ lê là Mặt bàn, Duy na là thầy na; Kiến văn tiểu lục9 của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) liệt kê các chữ Phạn phiên âm chữ Hán và Đạo giáo nguyên lưu của An Thiền (thế kỷ XIX) với một số trang dành riêng cho việc ghi lại những từ tiếng Phạn với nghĩa chữ Hán.

Hiện nay, việc mở rộng giao lưu với toàn thế giới phát sinh nhu cầu học tiếng Phạn để tìm hiểu về lịch sử, tư tưởng, văn hóa của những dân tộc đã từng sử dụng hoặc chịu ảnh hưởng thứ ngôn ngữ này, cũng như để tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của chính dân tộc ta. Vì vậy chúng tôi xin giới thiệu với độc giả nguyệt san Giác Ngộgiáo tài hàm thụ tiếng Phạn sơ cấp, giúp các bạn có một số khái niệm cơ bản về ngữ pháp của ngôn ngữ này.

----o0o----

Nguồn: chuyenphapluan.com

Trình bày: Nhị Tường

Ý kiến bạn đọc
11/05/202009:27
Khách
rất hay ,tôi cũng đang học tiếng Phạn và thấy rất bổ ích
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2024(Xem: 1218)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 2339)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 1059)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 1158)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1675)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 4768)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10864)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 5340)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
23/10/2023(Xem: 2140)
Lần đầu tiên, mạt nhân được biết tên tuổi của Ngài là vào năm 1986. Trong một lần đến chùa Dược Sư (quận Bình Thạnh) thỉnh kinh, lục lạo trong đống kinh sách cũ, vô tình mạt nhân tìm được cuốn A Di Đà Kinh Giảng Ký của pháp sư Thích Diễn Bồi. Giở xem thấy văn phong khá giản dị, đủ để một người vốn liếng chữ Hán nhấp nhem như mạt nhân khi đó hiểu được dễ dàng ý tác giả qua vài trang sách đầu tiên. Thế là với bản giảng kinh ấy, mạt nhân có dịp tập tành luyện đọc văn Bạch Thoại. Càng đọc càng thấy những lời giải thích của Ngài tuy giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn thâm trầm, hàm súc, có thể nói không quá đáng là lời giảng của Ngài rất lợi lạc cho mọi tầng lớp người đọc, nhất là hạng hành nhân sơ cơ. Từ nhân duyên đặc biệt ấy, mạt nhân tâm nguyện bất cứ khi nào mình có được một bản giảng kinh nào của Ngài, sẽ cố gắng dịch sang tiếng Việt.
08/06/2023(Xem: 2805)
Trong môi trường văn hóa xã hội của chính chúng ta, thay vì chỉ đổ lỗi cho người khác - đi đến một kết luận chung, có lẽ rất đáng bị đổ lỗi, chúng ta nên cùng nhau, với tư cách là đa số im lặng, đó là nếu mỗi người chúng ta làm việc một cách độc lập và riêng lẻ để phát triển những điều lành mạnh, nội tại, văn hóa tinh thần (Pali: citta-bhavana) của chính chúng ta và của toàn xã hội, và cuối cùng tập thể có thể trở nên được cải thiện đáng kể, đồng thời dựa trên cơ sở củng cố đạo đức và thực thi pháp luật và trật tự.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567