Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghiên Cứu Cận Đại và Giáo Lý Phật Giáo Nói Gì Về Tái Sanh

16/04/201920:29(Xem: 4705)
Nghiên Cứu Cận Đại và Giáo Lý Phật Giáo Nói Gì Về Tái Sanh

Nghiên Cứu Cận Đại và Giáo Lý Phật Giáo Nói Gì Về Tái Sanh

Sam Littlefair/Lê Diễm Chi Huệ dịch

 

nghiencưucandaiphatgiao

Photo by Indra Dewa.


Điều gì sẽ xảy ra sau khi chúng ta qua đời?

Xưa nay, câu hỏi đó luôn nằm trong địa phận tôn giáo nhưng càng ngày nhiều nhà nghiên cứu cố tìm câu trả lời đó bằng phương cách khoa học.  Hầu hết Phật giáo truyền thống cho rằng có thể câu trả lời cho câu hỏi không thể trả lời đó là tái sanh.

Một số cho rằng Đức Phật nói về tái sinh vì đó là niềm tin đã được phổ biến rộng rãi tại Ấn độ từ thời cổ đại, nhưng trong cuốn sách mới tên là “Tái Sanh Trong Phật Giáo Khởi Nguyên và Nghiên Cứu Hiện Thời”, nhà sư , học giả Bhikkhu Analyo không tán đồng. Tái sanh là một đề tài gây cấn trong Ấn Độ cổ đại, và một số Phật giáo đương đại phủ nhận ý tưởng đó.  Ngạc nhiên thay, theo các kinh điển Phật giáo cổ, Đức phật nói rất nhiều về tái sanh. Trong kinh Phạm Võng có nêu rằng phủ nhận tái sanh là một quan điểm sai lầm.

Trong khi đó, một số tu sĩ Phật giáo đương thời cho rằng Phật giáo đồ không cần, hay không nên chú trọng vào kiếp trước và kiếp vị lai. Và không có một  sự hiểu biết thức đồng nhất về tái sanh từ kiếp này sang kiếp khác trong Phật giáo. Thật vậy, nhiều Phật giáo đồ đương thời xác định rằng chúng ta chắc chắc không biết gì về tái sanh.  Trong số báo tháng Năm của tạp chí Lion’s Roar, tác giả viết về một nghiên cứu về tái sanh do Jim Tucker, một nhà tâm lý học tại đại học Virginia, phân khoa Giác Quan Học thực hiện. Tucker không quan tâm nhiều về vấn đề tâm linh. Ông dùng phương thức khoa học để nghiên cứu những trường hợp các trẻ em có thể nhớ lại kiếp trước của mình, và như tác giả đã đề cập trong bài viết này là ông đã tìm ra nhiều điểm đáng chú ý.  Điểm đáng chú ý hơn ngoài những trường hợp riêng biệt có thể rút tỉa ra khi tất cả được quan sát chung.  Tucker và đồng nghiệp của ông thu thập cả ngàn trường hợp rồi đưa vào máy vi tính để phân tích thống kê, và họ có những kết luận thú vị.

Thật sai lầm khi cho rằng quan điểm Phật giáo có thể hoặc nên xác nhận quan điểm học thuật Phương Tây  và ngược lại. Nó khác nhau rõ rệt. Nhóm ông Tucker chú trọng vào tái sanh mà được hiểu chung chung là sự tồn tại của linh hồn từ thân xác này đến thân xác khác.  Quan niệm Phật giáo về vô ngã phủ nhận sự tồn tại của linh hồn và cho rằng chúng ta là tập hợp của nhiều hiện tượng luôn biến chuyển để tạo nên ảo tưởng của một bãn ngã.

Dưới đây là những khác biệt giữa các nghiên cứu và giáo lý Phật giáo về tái sanh.

1-Những đặc điểm mang theo ở kiếp sau

Ký ức và đặc điểm trên thân thể từ kiếp này sang kiếp sau là những hiện tượng chính được quan sát trong nghiên cứu hiện tượng tái sanh.  Nhiều khi các em bé biểu hiện triệu chứng Hậu Chấn Tâm Lý mặc dù không trải qua cuộc khủng hoảng nào trong kiếp sống hiện tại. Hơn nữa số các em bé mà kiếp trước bị chết đuối bây giờ lại sợ nước. Một số trường hợp biết nói tiếng ngoại ngữ hoặc có những khả năng đã được học hỏi từ trong kiếp trước.

Để tìm một hệ luận Phật giáo, chúng ta cần không cần nhìn đâu xa mà dựa vào cuộc đời đức Phật. Đức Phật được cho là nhớ được tất cả những việc xảy ra trong kiếp trước của ngài vào một đêm trước khi ngài giác ngộ. Chuyện truyền rằng Đức Phật được biết có đến có 32 tướng tốt . Khi ngài là một cậu bé đến trường, ngài có thể hiểu nhiều ngoại ngữ mà các thầy cô đều không biết. Những câu chuyện như vậy vẫn thấy xẩy ra với các vị Phật hoá thân, các vị Lạt Ma tái sanh trong Phật giáo Tây Tạng khi các vị này được nhận dạng bởi khả năng họ có thể nhận ra các đồ vật được sử dụng của các vị tiền thân.

2- Điều Tiên Đoán và Giấc Mơ

Các nhà nghiên cứu cũng nghiên cứu các tiên đoán siêu nhiên hoặc giấc mơ trùng hợp với các trường hợp đầu thai. Trong giấc mơ, người mẹ thường thấy một người hiện ra và xin được đầu thai làm con của họ. Trong tường hợp đức Phật, thân mẫu ngài thường mơ thấy một con voi đến bên cạnh và nhập vào thai mình. Trong hệ thống thị hiện thân, các đức Lạt Ma tiên đoán hoàn cảnh họ sẽ tái sanh như thế nào.

3-Nghiệp Lành

Nghiệp là một khái niệm phức tạp và gây nhiều tranh cãi trong giới Phật đồ.  Nghiệp không chỉ diễn tả “gieo nhân nào gặp quả đó” mà giới bình dân thường biểu đạt. Nó là một sai lầm khi nghĩ rằng nghiệp nghĩa là tất cả hoàn cảnh của chúng ta đều là kết quả từ những hành động trong quá khứ.  Giới học giả Phật giáo cho rằng hoàn cảnh của chúng ta là dựa vào nhiều nhân tố mà không chỉ do nghiệp tạo thành.  Nghiệp ám chỉ rằng hành động của chúng ta đều có hậu quả.  Các quả nghiệp thường không thể đoán  chính xác và có thể không trổ ngay liền.  Chúng ta gặt quả nghiệp trong vài ba năm hoặc nhiều đời sau nghiệp quả mới trổ. Tuy nhiên, một số tu sĩ Phật giáo cho rằng nghiệp có nhiều xu hướng. Nhà sư, học giả Analayo viết rằng “một khuynh hướng căn bản là nghiệp xấu cuối cùng sẽ gặt quả trong tình huống xấu, và nghiệp lành sẽ thọ những quả lành”.

Thông thường nhất là ký ức Một cậu bé miêu tả những gì mà cậu ta đã trải nghiệm và xảy ra trước khi cậu bé chào đời.  Các nhà nghiên cứu có khuynh hướng tìm những trường hợp người chuyển kiếp mang tâm tính của kiếp trước. Bên cạnh ký ức, các nhà nghiên cứu cũng quan sát những đặc điểm trên thân thể như vết bớt hoặc dị tật và hành vi thuộc kiếp trước.  Trong nhiều trường hợp đứa bé mang vết bớt với kích thước và hình thể giống như vết đạn (đôi khi có cả vết bớt thứ hai to hơn hợp với vết đạn bắn ra) trùng hợp một cách chính xác với vết thương của đối tượng trước khi chuyển kiếp. Trong một vài trường hợp, khám nghiệm tử thi xác định vị trí của vết thương trùng vớp vị trí của vết bớt.  Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích thêm rằng nếu chúng ta muốn có một đời sống tái sanh tốt thì nên sống một đời sống đạo hạnh là đủ”.  Ngạc nhiên thay, các phân tích thống kê thực hiện bởi các nhà nghiên cứu hiện tượng tái sanh nêu rằng những gì Đức Đạt Lai Lạt Ma nói có thể đúng.

Khi nhóm Tucker nghiên cứu một trường hợp nào, họ phân các đối tượng nghiên cứu ra nhiều thành phần dựa trên các yếu tố như thánh thiện, phạm tội, trái luân lý,  giàu lòng bác ái hay rộng lượng và mộ đạo. Sau đó, họ so sánh các đặc điểm này với hoàn cảnh kinh tế và vị thế xã hội trong kiếp sống hiện tại. Trong tất cả các nhân tố, Tucker thấy có một sự tương quan rằng các đối tượng nghiên cứu trong kiếp trước càng sống thánh thiện ở kiếp trước thì điều kiện kinh tế và vị thế xã hội của họ càng cao trong kiếp sống hiện tại.

4-Thói Quen

Càng nhận ra những rối rắm khi nói đến nghiệp, chúng ta thấy những xu hướng trong các nghiên cứu của Tucker.  Ví dụ, Tucker suy đo án rằng chúng ta luôn gặp bế tắc trong kiếp sống hiện tại và cả kiếp vị lai.  Một người giàu có kiếp này có thể trở nên nghèo khó trong kiếp sau. Ý tưởng này trùng hợp với quan niệm “Cõi Giới” trong Phật giáo, nghĩa là chúng ta có thể sinh ra trong cõi giới này hay cõi giới kia tuỳ thuộc vào trải nghiệm của chúng ta.  Như Tucker mô tả, tất cả những thói quen của chúng ta sẽ định doạt cõi giới mà chúng ta sẽ sinh ra.

Tucker cũng nhận thấy rằng thói quen có thể được tích trữ từ kiếp sống này qua kiếp sống khác. Các dữ kiện Nhóm Tucker thu thập cho thấy rằng có một sự tương quan ở đặc tính giữa kiếp trước và những kiếp sau: Người mộ đạo kiếp này có khuynh hướng là người mộ đạo kiếp sau; người giàu lòng bác ái trong kiếp này có khuynh hướng là người giàu lòng bác ái trong kiếp sau; thiền giả trong kiếp này có khuynh hướng là thiền giả kiếp sau.

5-Khả năng nhớ lại kiếp trước

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng khả năng một người nhớ lại kiếp trước của họ phụ thuộc vào “khả năng duy trì ký ức”.  Một người càng trẻ và càng ra đi đột ngột, họ càng có khả năng mang theo ký ức và tâm tính vào kiếp sau.  Điều này gần chính xác với nghiên cứu của Tucker.  Bảy mươi phần trăm trong các trường hợp Tucker nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu chết đột ngột trong kiếp trước và trùng bình số tuổi là 28.  Một phần tư đối tượng nghiên cứu chết trước 15 tuổi.

 “Một đứa bé chết trẻ có khả năng nhớ lại ký ức kiếp trước của nó”. Ông viết.

Hơn nữa, khi người chuyển kiếp chết chết tự nhiên, họ ít có khả năng nhớ lại vì họ ra đi như thế nào.  Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ký ức về kiếp trước thường được nhớ lại lúc còn nhỏ do đặc tính của người chuyển kiếp trong kiếp trước bị ảnh hưởng bởi trải nghiệp ở kiếp hiện tại. Trong nghiên cứu của Tucker, hầu hết các em bé nói về kiếp sống trước khi chúng bắt đầu biết nói và hết nhớ khoảng lúc 7 tuổi.  Khi chúng trở thành vị thành niên, chúng có thể phủ nhận việc đã từng nhớ về kiếp trước.  Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói rằng hành thiền sẽ giúp duy trì ký ức. Trong khi đó, Tucker cho rằng ông không thấy điểm này trong các nghiên cứu của mình. Các dữ kiện cho thấy rằng một người hành thiền trong kiếp trước, họ có thể có khả năng nhớ lại trải nghiệm trung ấm.

6- Giai Đoạn Trung Gian

Khoảng hai mươi phần trăm trong các trường hợp Tucker nghiên cứu nhớ lại ký ức giữa hai kiếp. Ký ức này gồm trải nghiệm đám tang, quá trình thụ thai, hoặc cõi giới khác.  Thời gian bình quân giữa chết và tái sanh khoảng mười lăm tháng, có nghĩa là khoảng sáu tháng kể từ khi chết và quá trình thụ thai.

Một số trường Phật học bàn luận khá nhiều về giai đoạn trung ấm, còn được gọi là “bardo”. Nổi tiếng nhất là cuốn Tử Thi Tây Tạng, mô tả chi tiết về trải nghiệm trung ấm thân. Nghiên cứu của Tucker mâu thuẩn với giáo lý Phật giáoTây Tạng vì giáo lý Phật giáo Tây Tạng cho rằng thần thức vong linh ở cõi trung ấm 49 ngày trước khi đi đầu thai, mặc dù đó là khoảng thời gian phỏng định và không phải ngày giờ trần gian. Một số Phật học viện khác cho rằng không có thời gian ấn định một vong linh ở trong cõi trung ấm bao lâu. Các học viện khác cũng không nói gì về thời gian trong cõi trung ấm.

Vì sao chúng ta dường như nói về ý tưởng có vẻ mê tín như vậy? Các Phật tử  thường nói về tái sanh và những quan niệm liên quan như nghiệp, cõi giới và giai đoạn trung ấm bởi vì đó là những trải nghiệm xảy ra từ kiếp sống này đến kiếp sống kế tiếp. Bất kể sinh tử, giáo lý Phật giáo cho rằng đây là những hiện tượng biến chuyển không ngừng.  Trong mỗi biến chuyển, các nhân tố tạo thành thân ngũ uẩn tan rã và cấu tạo lại một thân tái sanh khác khiến chúng ta nghĩ rằng chúng ta là thật, là những cá thể vĩnh cửu. Trong bất kỳ giây phút nào, chúng ta cũng có thể sinh vào cõi giới khác, hoặc vất vưởng trong cõi trung gian. Nhiều tu sĩ Phật giáo khuyên ngăn chúng ta không nên bận tâm quá nhiều vào khái niệm tái sanh từ kiếp này đến kiếp khác. Trong khi nó là đề tài nghiên cứu thú vị, nhưng ở khía cạnh thực hành tâm linh, nó có thể trở thành một vướng bận vô bổ.

Đức Chögyam Trungpa viết rằng “Nhiều người từng trải nghiệm và họ xác định hiện tượng tái sanh là có. Tại Anh Quốc, tôi biết một gia đình Thiên chúa giáo mất con gái trong một tai nạn. Vài năm sau họ sanh một bé gái khác. Một ngày nọ, đứa con gái đang qua đường với bố cô và cô bất ngờ nói: “Con không muốn qua đường này . Đây là con đường xảy ra tai nạn trước đây phải không Bố ?” Và thật vậy, con đường đó là nơi xảy ra tai nạn. Nhiều người khác cũng có trường hợp tương tự nhưng tôi không muốn suy đoán về điều này hay làm cho người khác phải tin. Điều quan trọng ở đây là tâm thức luôn tồn tại. Nó không bị phá huỷ. Khi chúng ta ngủ hay khi chúng ta không ý thức được, tâm thức vẫn hiện hữu mọi lúc.”


11 April 2019

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2024(Xem: 1080)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 6321)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1297)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3076)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 16077)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 9780)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 12045)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 16591)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
09/09/2020(Xem: 6795)
Hỏi: Thưa Thầy, luân hồi thật sự được hiểu thế nào trong Phật Giáo, hay vấn đề này bị nhầm lẫn với thuyết tái sinh trong Bà La Môn Giáo và một số tín ngưỡng Tây Phương, vì từ Hán Việt “tái sinh” tiếng Pháp viết là "réincarnation” là sự lặp lại về đơn vị gốc, ví dụ: Người giàu nghèo sang hèn v.v… cứ thế trở lại nguyên gốc. Còn tiếng Phạn saṃsāra là luân hồi là lang thang, trôi nổi. Nếu dùng bật lửa đốt cháy cây nến, điều kiện tạo lửa từ bật lửa sẽ gồm đá đánh lửa, hộp nhựa đựng khí gas, ống thông nhau, ống dẫn ga, bánh xe tạo lực ma sát vào đá lửa, vô số phân tử hóa học trong khí gas, môi trường xung quanh v.v… Trong khi các duyên bắt lửa của ngọn nến chỉ có 2 yếu tố cơ bản gồm thân đèn làm bằng sáp và tim làm bằng vải… Vậy ngọn lửa từ bật lửa có quan hệ gì với ngọn lửa của cây nến? Như thế luân hồi không phải là sự tái sinh nguyên bản mà là tâm lang thang trôi lăn chìm nổi vì tham sân si, không biết tàm quý để rồi chúng sanh cứ mãi bị cái vòng xoay đó làm cho đau khổ?
08/06/2020(Xem: 6782)
Thần đồng 9 tuổi tốt nghiệp đại học, chuẩn bị học tiến sĩ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567