Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Gstadd, 31 tháng tám 1961

09/07/201100:31(Xem: 3401)
3. Gstadd, 31 tháng tám 1961

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Sổ tay của Krishnamurti

Gstadd, 31 tháng tám 1961

Thiền định không một công thức sắp đặt trước, không một nguyên nhân và lý do, không kết thúc và mục đích là một sự kiện không thể tin được. Nó không chỉ là một bùng nổ dữ dội để làm tinh khiết nhưng nó cũng là chết, mà không có ngày mai. Tinh khiết của nó tàn phá; không để lại một ngõ ngách ẩn nấp nào cho tư tưởng có thể mai phục trong những cái bóng tối tăm riêng của nó. Tinh khiết của nó mong manh rất dễ tổn thương; nó không là một đức hạnh có được do chế ngự. Nó tinh khiết vì nó không chế ngự, giống như tình yêu. Không có ngày mai trong thiền định, không có tranh luận với chết. Chết của ngày hôm qua và của ngày mai không để lại sự hiện diện tầm thường của thời gian, và thời gian luôn luôn tầm thường, nhưng một hủy diệt là cái mới mẻ. Thiền định là cái này, không là những tính toán xuẩn ngốc của bộ não tìm kiếm sự an toàn. Thiền định là hủy diệt sự an toàn và có vẻ đẹp vô hạn trong thiền định, không là vẻ đẹp của những sự vật được xếp đặt bởi con người hoặc bởi thiên nhiên nhưng của tĩnh lặng. Tĩnh lặng này là trống không mà trong đó và từ đó tất cả mọi sự vật trôi chảy và có sự hiện diện của chúng. Nó không thể biết được, cũng không phải trí năng hay cảm thấy có thể vạch lối vào nó; không có lối vào nó và một phương pháp để vào nó là sự sáng chế của một bộ não tham lam. Tất cả những phương cách và phương tiện của cái tôi tính toán phải bị hủy diệt hoàn toàn; tất cả cái đang tiến tới hoặc lùi lại, cách thức của thời gian, phải kết thúc, không có ngày mai. Thiền định là hủy diệt; nó là một hiểm họa cho những người ước ao sống một cuộc sống giả tạo và một cuộc sống của tưởng tượng và hoang đường.

Các vì sao rất sáng, rực rỡ thật sớm vào buổi sáng. Bình minh còn rất lâu mới đến; tĩnh lặng đáng ngạc nhiên, ngay cả con suối náo nhiệt cũng im tiếng và những quả đồi cũng lặng yên. Nguyên một tiếng đồng hồ đã trôi qua trong trạng thái đó khi bộ não không ngủ nhưng thức, thật nhạy và chỉ đang nhìn; trong suốt trạng thái đó tổng thể của cái trí có thể vượt khỏi nó, không có những phương hướng vì không có người định hướng. Thiền định là một cơn bão, đang hủy diệt và đang súc sạch. Sau đó, xa xa, bình minh đã đến. Ở phía đông, có một ánh sáng đang lan tràn, thật non dại và yếu ớt, lặng như tờ và e thẹn; ánh sáng đó đến và đi qua những quả đồi xa xôi và nó sờ vào những hòn núi hùng vĩ và những đỉnh cao. Trong từng nhóm hoặc đơn chiếc, cây cối đứng yên, cây dương bắt đầu thức giấc và con suối reo hò vui vẻ. Bức tường trắng đó của một ngôi nhà nông trại, hướng về phía tây, trở nên trắng xóa. Chầm chậm, thanh bình, gần như nài nỉ nó đến và tràn đầy đất đai. Sau đó những đỉnh núi tuyết bắt đầu bừng sáng, màu hoa hồng rực rỡ và những tiếng ồn của buổi sáng sớm bắt đầu. Ba con quạ bay ngang bầu trời, yên lặng, tất cả cùng một hướng bay; từ xa vọng lại âm thanh của một cái chuông trên cổ một con bò và vẫn vậy có tĩnh lặng. Tiếp theo một chiếc xe hơi đang chạy thẳng lên quả đồi và ngày bắt đầu.

Trên con đường đó trong cánh rừng, một chiếc lá vàng rơi; vì đối với một số cây mùa thu đây rồi. Nó là một chiếc lá cô đơn, không một tì vết trên nó, không đốm, sạch sẽ. Nó là màu vàng của mùa thu, chiếc lá vẫn còn dễ thương trong cái chết của nó, không bệnh tật nào ảnh hưởng đến nó. Chiếc lá vẫn còn sự no đủ của mùa xuân và mùa hạ và vẫn vậy tất cả những chiếc lá của cây đó xanh tươi. Nó là chết của vinh quang. Chết ở đó, không phải trong chiếc lá vàng úa, nhưng thực sự ở đó, không là một cái chết thông thường không tránh khỏi nhưng là chết đó luôn luôn có mặt. Nó không là một tưởng tượng nhưng là một thực tại không thể bị che lấp. Nó luôn luôn ở đó quanh mọi khúc quẹo của một con đường, trong mọi ngôi nhà, với mọi thần thánh. Chết ở đó cùng tất cả sức mạnh và vẻ đẹp của nó.

Bạn không thể lẩn tránh chết; bạn có lẽ quên nó, bạn có lẽ giải thích nó hoặc tin rằng bạn sẽ đầu thai hoặc phục sinh. Dù làm việc gì bạn muốn, đi đến bất kỳ đền thờ hoặc quyển sách nào nó luôn luôn ở đó, trong hân hoan và trong tràn trề. Bạn phải sống cùng chết để biết nó; bạn không thể biết nó nếu bạn khiếp sợ nó; sợ hãi chỉ làm tối tăm nó. Muốn biết nó bạn phải yêu nó. Muốn sống cùng nó bạn phải yêu nó. Hiểu biết về nó không là kết thúc của nó. Nó là kết thúc của hiểu biết nhưng không phải của chết. Muốn thương yêu nó không là quen thuộc với nó; bạn không thể quen thuộc với hủy diệt. Bạn không thể thương yêu một cái gì đó mà bạn không biết nhưng bạn không biết một cái gì cả, ngay cả người vợ của bạn hay ông chủ của bạn, huống chi là một người khách lạ hoàn toàn. Nhưng tuy vậy bạn phải thương yêu nó, cái khác lạ, cái không biết được. Bạn chỉ thương yêu cái mà cho bạn chắc chắn, cái mà cho bạn thanh thản, an toàn. Bạn không thương yêu cái không chắc chắn, cái không biết được; bạn có lẽ thương yêu sự hiểm nguy, dâng tặng cuộc đời bạn cho người khác hoặc giết người khác vì quốc gia của bạn, nhưng đây không là tình yêu; những sự việc này có phần thưởng và lợi lộc riêng của nó; bạn thương yêu điều đạt được và thành công dù rằng có đau khổ trong chúng. Không có lợi lộc nào khi biết chết nhưng lạ lùng thay chết và tình yêu luôn luôn theo cùng nhau; chúng không bao giờ phân ly. Bạn không thể thương yêu mà không có chết; bạn không thể ôm ấp mà không có chết hiện hữu ở đó. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó cũng có chết, chúng không thể phân ly.

Nhưng chúng ta có biết tình yêu là gì không? Bạn biết cảm xúc, cảm động, ham muốn, cảm tình và cơ cấu của tư tưởng nhưng tất cả những sự việc này không là tình yêu. Bạn thương yêu người chồng của bạn, con cái của bạn; bạn căm ghét chiến tranh nhưng bạn lại thực hiện chiến tranh. Tình yêu của bạn biết hận thù, ganh tị, tham vọng, sợ hãi; khói của những việc này không là tình yêu. Quyền lực và thanh danh bạn thương yêu, nhưng quyền lực và thanh danh là tội lỗi, gây thối nát. Bạn có biết tình yêu là gì không? Không bao giờ biết nó là điều kỳ diệu của nó, vẻ đẹp của nó. Không bao giờ biết, mà không có nghĩa là vẫn còn nghi ngờ cũng không có nghĩa là tuyệt vọng; nó là chết của ngày hôm qua và vì vậy là không chắc chắn hoàn toàn của ngày mai. Tình yêu không tiếp tục, chết cũng không tiếp tục. Chỉ có ký ức và hình ảnh trong khung có sự tiếp tục nhưng những thứ này là máy móc và thậm chí máy móc mòn rồi, cũng nhường chỗ cho những hình ảnh mới, những ký ức mới. Cái gì có sự tiếp tục luôn luôn đang thối rữa và cái gì thối rữa không là chết. Tình yêu và chết không thể tách rời và nơi nào có chúng luôn luôn có hủy diệt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 8486)
Tôi có quen một cặp vợ chồng trẻ thường lui tới ngôi chùa Bảo Vương để học Pháp tụng kinh mỗi sáng chủ nhật. Minh Sinh, người chồng, gọi tôi là 'anh' trong khi Phương Thảo, người vợ, gọi tôi bằng 'chú'. Khoảng nửa năm trước mẹ của Thảo, 82 tuổi, ngả bệnh đang nằm trong bệnh viện Clayton với tình trạng đã hôn mê kiệt quệ, thoi thóp chỉ chờ ngày 'ra đi'. Thảo-Sinh đã mời Sư Ông (mà tôi gọi là sư phụ) đến tụng kinh cho bà cụ. Hôm đó là một ngày làm việc nên chỉ có sư phụ cùng với anh Bảo Minh Đạo (đã hưu trí) có thể đi được. Đã hẹn trước nên anh Minh Đạo - trên đường hướng về Clayton đã ghé ngang city đón tôi trước nơi làm việc trên đường Flinders để đi luôn cho đủ bộ, có 'duy na' có 'duyệt chúng', có 'tả phù hữu bật' để phò trợ cho sư phụ trong việc hành lễ.
11/11/2014(Xem: 5390)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17596)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6807)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6843)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7220)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11802)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 15232)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11720)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 6994)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567