Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Từ Nói chuyện ở Châu âu 1968: Paris, 28 tháng tư 1968

09/07/201100:31(Xem: 3484)
3. Từ Nói chuyện ở Châu âu 1968: Paris, 28 tháng tư 1968

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Bình phẩm về sống
Tập 2

Từ Nói chuyện ở Châu âu 1968:
Paris, 28 tháng tư 1968

Khi suy nghĩ kỹ càng về chết và đau khổ, người ta phải tìm hiểu vấn đề chết và tuổi già này. Chết có lẽ xảy ra qua bệnh tật, qua một tai nạn, hay qua suy nhược và tuổi già. Có sự kiện rõ ràng của các cơ quan thân thể đang đến một kết thúc. Và cũng có sự kiện rõ ràng của các cơ quan thân thể đang tăng trưởng lớn hơn, đang trở thành già nua, bị bệnh tật, và chết. Và người ta quan sát, khi người ta lớn tuổi, vấn đề do tuổi tác cấu thành, sự xấu xí của nó, khi người ta già nua người ta trở nên chán nản hơn, vô cảm hơn đến chừng nào. Tuổi già trở thành một vấn đề khi người ta không biết sống như thế nào. Người ta có lẽ đã chưa bao giờ sống gì cả – người ta đã sống trong đấu tranh, đau khổ, xung đột, mà được thể hiện trong những bộ mặt của chúng ta, trong những thân thể của chúng ta, trong những thái độ của chúng ta.

Khi các cơ quan thân thể đến một kết thúc, chết chắc chắn không tránh khỏi. Những nhà khoa học có lẽ khám phá loại thuốc nào đó mà sẽ cho sự tiếp tục được năm mươi hay một trăm năm, nhưng luôn luôn có chết ở cuối đường. Luôn luôn có vấn đề của tuổi già, giảm trí nhớ, bị lão suy, mỗi lúc một vô dụng cho xã hội và vân vân. Và có chết, chết như cái gì đó không thể tránh khỏi, không biết được, khó chịu nhất, kinh hoàng nhất. Bởi vì sợ hãi nó, thậm chí chúng ta không bao giờ nói về nó, hay nếu chúng ta phải nói về nó, chúng ta có những lý thuyết, những công thức gây hài lòng, hoặc “đầu thai” của phương Đông hoặc “sanh lại” của phương Tây. Hoặc có lẽ theo trí năng chúng ta chấp nhận chết rồi nói rằng nó là việc không tránh khỏi và “bởi vì mọi thứ đều phải chết, tôi cũng sẽ chết”. Sự giải thích duy lý, một niềm tin an ủi, và một tẩu thoát, tất cả đều giống hệt nhau.

Nhưng chết là gì? Ngoại trừ một thực thể vật chất đang đến một kết thúc, chết là gì? Khi đưa ra câu hỏi đó, người ta phải hỏi sống là gì? Sống chết không thể bị tách lìa. Nếu bạn nói, “Tôi thực sự muốn biết chết là gì,” bạn sẽ không bao giờ biết câu trả lời nếu bạn không biết sống là gì. Và sống của chúng ta là gì? Từ khoảnh khắc chúng ta được sanh ra đến khi chúng ta chết, nó gồm có đấu tranh liên tục, một bãi chiến trường, không những bên trong chúng ta nhưng còn với những người hàng xóm của chúng ta, với người vợ của chúng ta, con cái, người chồng của chúng ta, với mọi thứ – nó là một trận chiến của đau khổ, sợ hãi, lo âu, tội lỗi, cô độc, và tuyệt vọng. Và từ tuyệt vọng nảy sinh những sáng chế của cái trí như là những vị thần, những đấng cứu rỗi, những vị thánh, sự tôn thờ những anh hùng, những nghi lễ và chiến tranh – chiến tranh thưc sự, giết chết lẫn nhau. Đó là sống của chúng ta. Đó là điều gì chúng ta gọi là sống, trong đó có lẽ có một khoảnh khắc của vui sướng, một chút lóe sáng trong mắt, nhưng đó là sống của chúng ta. Và chúng ta bám vào sống đó bởi vì chúng ta nói, “Ít ra tôi biết việc đó, và thà rằng có nó còn hơn không có gì cả.”

Vậy là người ta sợ sống, và người ta sợ chết, kết thúc. Và khi chết đến không tránh khỏi, người ta chiến đấu để đẩy lùi nó. Sống của chúng ta là một khốn khổ vươn dài của trận chiến với bản thân, với mọi thứ quanh chúng ta. Và trận chiến này là điều gì chúng ta gọi là tình yêu; nó là một vui thú chất chồng, một ham muốn vô tận, với thành tựu của nó, ái ân hay những thứ khác – tất cả việc đó là sống của chúng ta từ sáng đến khuya.

Nếu chúng ta không hiểu rõ sống, chỉ tìm một phương cách ra khỏi chết là việc hoàn toàn vô lý. Khi người ta hiểu rõ sống là gì, mà là kết thúc đau khổ, kết thúc đấu tranh, không tạo ra một trận chiến của sống, vậy thì người ta sẽ thấy theo tâm lý, bên trong, rằng sống là chết – chết đi mọi thứ hàng ngày, chết đi mọi tích lũy đã thâu lượm được, để cho cái trí là trong lành, mới mẻ, và hồn nhiên hàng ngày. Và việc đó đòi hỏi chú ý vô cùng. Nhưng chú ý này không thể hiện diện nếu không có một kết thúc đến đau khổ, đó là, sợ hãi, và thế là kết thúc của tư tưởng. Sau đó cái trí hoàn toàn yên lặng – không phải đờ đẫn, không phải ngu dốt, không phải bị làm vô cảm bởi kỷ luật và mọi chuyện còn lại của những ma mãnh đó mà người ta đùa giỡn qua thực hành yoya hoặc đại loại như thế. Sau đó chết là sống, điều đó có nghĩa không có chết nếu không có tình yêu. Tình yêu không là một ký ức. Sống, tình yêu, và chết theo cùng nhau; chúng không là những sự việc tách lìa. Và vì vậy sống là sống hàng ngày trong một trạng thái trong sáng; và để có rõ ràng đó, hồn nhiên đó, phải có chết đi trạng thái đó của cái trí mà trong nó luôn luôn có cái trung tâm, cái “tôi.”

Nếu không có tình yêu không có đạo đức. Nếu không có tình yêu không có hòa bình; không có liên hệ. Đó là nền tảng cho cái trí muốn thâm nhập vô hạn vào kích thước đó mà trong nó chỉ duy nhất sự thật hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3813)
Cổ thi nói: "Ta thấy người khác chết. Trong lòng nóng xót xa! Chẳng phải xót kẻ mất. Vì sẽ đến phiên ta!" Giữa đời, việc buồn thảm lớn lao không chi hơn tử biệt. Nhưng sự chết, người đời lại chẳng ai tránh khỏi. Cho nên những kẻ có lòng muốn lợi mình lợi người, không thể không sớm dự bị lo toan. Thật ra, chữ chết nguyên là giả danh, vì đó chẳng qua là sự kết liễu của một thời quả báo, do nghiệp cảm liên chuyền giữa mỗi đời, khi xả thân này, lại thọ thân khác mà thôi. Kẻ không biết Phật pháp vẫn đành để cho tùy nghiệp xoay vần. Người đã nghe pháp môn Tịnh Độ của Như Lai, phải tín nguyện niệm Phật dự bị tư lương, để khi lâm chung được vãng sanh an thuận.
13/07/2011(Xem: 4787)
Người tu Tịnh Độ, khi bịnh chưa nặng cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống thuốc rồi sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đã nặng, có thể không cần dùng thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ thưa để xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng...
13/07/2011(Xem: 3392)
Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu “ sanh ký tử quy, nghĩa là ; Sống gởi trần gian, chết lại về”. Vậy khi chết chúng ta đi về đâu? Đây là câu hỏi rất khó trả lời, chỉ có bậc Đại giác ngộ mới thấy rõ con đường đi này và chỉ dạy cho chúng ta biết mà thôi. Đó là sáu con đường mà chúng sanh qua lại mãi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cõi Trời, Người, A-tu-la, còn gọi là sáu nẻo luân hồi. Khi con người còn sống, gây tạo nhân gì thì kết quả sẽ theo họ như thế ấy. Kết quả đó là động cơ thúc đẩy con người sau khi chết, đi vào các cảnh giới tương ưng trong sáu đường .
13/07/2011(Xem: 4056)
“Trợ giúp thành tựu cho một chúng sanh được vãng sanh, tức là thành tựu cho một chúng sanh tương lai thành Phật. Công đức này thật không thể nghĩ bàn”. Hộ niệm là trợ giúp cho một người được vãng sanh. Người hộ niệm cần phải biết rõ phương pháp cũng như đạo lý về vãng sanh thì mới đem lại lợi ích cho người được hộ niệm. Người không tu hành, không hiểu Phật pháp, không được hướng dẫn vãng sanh, không có hộ niệm, giờ lâm chung đa phần thần thức của họ thường bị dìm trong ác mộng, bị rơi vào những cạm bẫy dữ ác, rơi vào những cảnh hung hiểm. Bị lôi vào đó rồi thì rất khó thoát thân, thần thức sẽ theo nghiệp đi thọ báo.
09/07/2011(Xem: 6505)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
01/07/2011(Xem: 8732)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
24/06/2011(Xem: 4514)
Đó là câu hỏi của một hãng Thông tấn ở phương Tây đưa ra trong một cuộc thăm dò ý kiến với đông đảo người dân ở nước Anh. Câu hỏi với tình huống giả định là một thiên thạch sắp đâm vào trái đất và bạn chỉ còn 60 phút nữa sống trên cõi đời, bạn sẽ làm gì trong 60 phút ngắn ngủi ấy…
19/06/2011(Xem: 8298)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
11/06/2011(Xem: 4297)
Chúng ta chết là chết như thế nào? Và sau khi chết, chúng ta đi về đâu? Đấy là những câu hỏi, những thắc mắc, những hoài nghi đeo bám tâm thức nhân loại từ xưa đến nay và dường như chúng vẫn đang còn treo lơ lửng ở đấy với những vấn nạn siêu hình nhức nhối và đầy bí ẩn. Đức Phật là bậc thầy của chư thiên và loài người (Thiên Nhân Sư), là bậc thông suốt thế gian, thông suốt tam giới (Thế Gian Giải), là bậc đã thấy biết toàn diện và chơn chánh (Chánh Biến Tri)... đã giảng giải cho những người học Phật và tu Phật như thế nào về “hiện tượng chết và tái sanh”? Bây giờ muốn đi vào nội dung ấy, chúng ta sẽ phải lần lượt nghiên cứu qua những tương quan liên hệ sau đây:
06/05/2011(Xem: 9179)
Khi truyền bá rộng rãi sang châu Á, Phật giáo thành công khi vượt qua một số vấn đề nổi bật từ những giới hạn về ngôn ngữ trong một số trường hợp phải phiên chuyển thành một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ nói của Ấn Độ. Giáo lý đạo Phật được truyền đạt bằng lời nói qua vô số ngôn ngữ và tiếng nói địa phương. Còn Kinh tạng, khi đã được viết ra, lại được phiên dịch thành hàng tá ngôn ngữ ngay cả trước thời kỳ hiện đại. Do vì nguồn gốc lịch sử không cho phép các học giả dùng ngôn ngữ nói trong việc giảng dạy, bài viết này sẽ tập trung vào những ý tưởng được viết ra, nhằm khảo sát việc truyền dạy qua lời nói chỉ trong thời kỳ Phật giáo Ấn Độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567