Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chứng cứ khoa học của sự tái sinh

08/04/201319:53(Xem: 5755)
Chứng cứ khoa học của sự tái sinh

Giới Thiệu Bài Mới

Chứng Cứ Khoa Học Của Sự Tái Sinh

Tỳ kheo Khantipalo - Phạm Kim Khánh dịch

Nguồn:GS Minh Chi



taisinh2

Theo một cuộc điều tra thống kê của Viện Gallup trên toàn nước Mỹ năm 1982 về tỷ lệ người Mỹ tin ở thuyết tái sanh, con số của Viện Gallup đưa ra có thể nói rằng là một con số bất ngờ: 1/4 người Mỹ tin ở thuyết tái sanh, 1/4 trên tổng số dân khoảng 250 triệu là bao nhiêu? Người Mỹ vẫn nổi tiếng trên toàn thế giới là thế tục, thực dụng và tôn trọng vật chất! Như vậy, là có trên 60 triệu người Mỹ tin có thuyết tái sanh, không kém dân số cả nước ta bao nhiêu. Nhà văn hào Pháp Voltaire (thế kỷ XVIII) nói là: "Nếu nói thuyết tái sanh làm người ta kinh ngạc, thì thuyết nói con người chỉ sanh ra con người một lần cũng làm kinh ngạc không kém"
Lý do chủ yếu khiến người ta không tin tái sanh, có một đời sống trước là vì người ta không nhớ những chuyện gì đã xảy ra trong đời sống trước đó. Nhưng hãy hỏi, ngay đối với những chuyện xảy ra hồi nhỏ hay thậm chí mới xảy ra ngày hôm qua, chúng ta còn quên kia mà! Bao nhiêu điều chúng ta không trực tiếp biết hay là không nhớ, nhưng chúng vẫn tồn tại.
* Túc mạng minh hay là khả năng nhớ lại các đời sống trước.
Trong văn chương Phật giáo, có từ và khái niệm Túc mạng minh, là khả năng cuả các bậc thánh trong Phật giáo nhớ lại rõ ràng các kiếp sống trước của mình. Phật Thích Ca trong canh đầu đêm ngày thành Phật, đã nói như sau :
"Ta nhớ lại nhiều, rất nhiều đời sống trước mà Ta đã trải qua. Một đời, hai đời, ba đời, bốn, năm đời, năm mươi đời, trăm nghìn đời, trong các kiếp vũ trụ khác nhau...
Các bậc A La Hán đều nói chứng được ba minh, tức là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh. Thiên nhãn minh là khả năng nhìn xa, nhìn qua vật cản, nhìn tận những cõi sống khác không phải cõi người. Lậu tận minh là sự sáng suốt đã xoá sạch mọi mê lầm và phiền não. Tất nhiên, trình độ Túc mạng minh của A La Hán còn kém nhiều, so với Phật.
Tính logic của thuyết tái sanh đã khiến cho có nhiều trí thức phương Tây, kể cả những tín đồ thiên chúa giáo, chấp nhận thuyết tái sanh. Trong cuốn "Exploration of Reincarnation" (Nghiên cứu thuyết tái sanh), tác giả Hans Tendam đã ghi nhận lời phát biểu của Henry Ford, nhà công và là nhà từ thiện Mỹ nỗi tiếng, về thuyết tái sanh như sau:
"Tôi chấp nhận thuyết tái sanh từ năm tôi 16 tuổi. Tôn giáo không cung cấp được cái gì thích hợp; ngay công việc cũng không làm được cho tôi đầy đủ. Công việc làm sẽ là vô ích nếu chúng ta không lợi dụng được kinh nghiệm của đời này để dùng cho đời sau. Khi tôi phát hiện được thuyết tái sanh, thì thời gian không còn bị hạn chế nữa. Tôi không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa. Tôi muốn truyền lại cho những người khác sự bình thản mà một quan điểm lâu dài về cuộc sống đã đem lại cho tôi".
(Hans Tendam. "Exploration of reincarnation" - London Adams 1990, tr.877)
Trong lời phát biểu của Henry Ford có câu "...Tôn giáo không cung cấp được cái gì thích hợp". Câu này không phải chỉ cho tôn giáo nói chung mà là cho Thiên Chúa giáo, một tôn giáo thần quyền chủ trương người ta chỉ sống và chết một lần. Còn các tôn giáo phát từ Ấn Độ, dù là Phật giáo hay Ấn giáo đều khẳng định có tái sanh.
Chúng ta thấy rõ bức xúc tâm lý của những người như Henry Ford, cuộc sống con người quá ngắn ngủi, không đủ để hoàn thành sự nghiệp lớn, do đó mà thuyết tái sanh đã mở rộng cho Ford tầm cỡ thời gian cuả cuộc sống, làm cho ông ta cảm thấy như không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa.
* Vài câu chuyện tái sanh có sức thuyết phục :
Trong cuốn "The Tibetan book of living and dying"(Cuốn sách Tây Tạng của sống và chết), tác giả, Thiền sư Tây Tạng Sogyal Rinpoche ghi câu chuyện của một người Anh sinh trưởng ở Norfolk, tên là Arthur Flowerdew. Từ 12 tuổi trở đi, anh ta thường xuyên thấy hiển hiện rõ nét trong trí nhớ hình ảnh một thành phố lớn, bao quanh bởi sa mạc; một hình ảnh đậm nét nữa là một ngôi đền tạc lõm sâu vào sườn núi. Những hình ảnh đó trở đi trở lại luôn trong đầu óc cậu bé, đặc biệt khi cậu chơi với hòn sỏi màu hồng và màu vàng dọc bờ biển, gần nhà cậu ta. Càng lớn lên, Flowrdew càng thấy hiện rõ những chi tiết của thành phố đó, với mô hình các đường phố, các binh lính đi qua đi lại, và con đường hẻm hẹp từ ngoài dẫn vào thành phố. Về sau, anh ta tình cờ xem được một cuốn phim video về thành phố cổ Petra ở Jorda. Anh ta vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy quảng trường trong thành phố cổ Petra này hoàn toàn giống hệt quảng trường anh thường thấy hiển hiện trong trí nhớ trước đây của anh. Qua trung gian đài BBC, Chính phủ Jordan biết được tin này và sẵn sàng đài thọ một chuyến bay chở Arthu Flowrdew và một đoàn làm phim của đài BBC đến Jordan. Trước chuyến đi, Arthur Flowerdew được giới thiệu với một nhà khảo cổ học rất ngạc nhiên về kiến thức của Arthur về Petra, và tuyên bố kiến thức này chỉ có thể là của một chuyên gia khảo cổ học lâu đời. Arthur nêu ra ba địa điểm đặc biệt của Petra: một tảng đá lớn, có dạng núi lửa, một ngôi đền, nơi Arthur tin là mình đã bị giết vào thế kỷ I sau công nguyên . Cuối cùng là một kiến trúc có dạng kỳ lạ, các nhà khảo cổ đều biết tới cấu trúc này, nhưng lại không rõ chức năng của nó là gì.
Nhà khảo cổ học tới gặp Arthur, và nghi ngờ là cái tảng đá dạng núi lửa ở ngoại ô Petra không tồn tại. Khi nhà khảo cổ đưa cho Arthur xem bức ảnh thành phố Petra, nơi có ngôi đền thì Arthur chỉ rõ khá chính xác vị trí của ngôi đền, và nơi trạm gác. Đó là cái trạm gác, mà hai nghìn năm trước đây anh ta đã từng phục vụ.
Sau khi đoàn đến Jordan, và đi thăm Petra, khi tiến đến gần thành, Arthur từ xa chỉ rõ cái tảng đá dạng núi lửa ở ngoại ô, và khi vào thành, Arthur đả không do dự, không cần tới bảng đồ, đã đi thẳng đến vị trí trạm gác cũ, nơi anh ta từng phục vụ. Anh ta còn đi đến nơi, mà anh ta nói đã bị kẻ thù đâm chết bằng một ngọn giáo.
Nhà khảo cổ đi theo Arthur không thể nào hiểu nổi: làm sao một công dân Anh bình thường lại có thể biết rõ thành phố cổ Petra đến như vậy...
Ngoài thuyết tái sanh, thật không có lý lẽ gì có thể giải thích được kiến thức kỳ lạ của Arthur Flowerdew về thành phố cổ Petra. Có thể nghi ngờ là Arthur là một tay bịp hay không? Không thể, vì Arthur đã nói ra nhiều đều mà các nhà khảo cổ học cũng không biết về Petra.
* Chuyện một cô bé gái nhớ lại đời sống trước của mình
Bác sĩ Ian Stevenson, thuộc trường Đại học Virginia(Mỹ) đã thu nhập nhiều truyện của trẻ con, nhớ lại đời sống trước của chúng(xem Ian Steveson Twenty cases suggestive of reincarnation Charlottesville. University Press of Virginia. 1974) Stevenson kể chuyện một em gái nhỏ tên là Kamalgit Kour, con một thầy giáo ở Pujab-Ấn Độ thuộc bộ tộc người Sikh. Em dẫn cha mình đến một làng, và nói với cha là em cùng với một người bạn đồng học đã bị xe chẹt chết ở đây, người bạn bị chết ngay lập tức. Em dẫn người cha đến đúng xóm nhà, nơi em từng ở trước đây với gia đình. Hỏi thăm hàng xóm, người cha biết đúng là như vậy - Một gia đình có một người con gái tên là Rishma, bị xe buýt đâm phải khi em 16 tuổi, và đã chết trong khi xe chở đi nhà thương. Khi ông nội và hai người bác của em trở về nhà gặp em thì em nhận ra đó là ông nội và người chú của em. Vào nhà, em không do dự đi thẳng vào phòng, xưa vốn là phòng của em.
Câu chuyện nói trên được kể với Giáo chủ Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma và ông gửi một đặc phái viên đến tận nơi để tìm hiểu rõ mọi đầu đuôi câu chuyện.
* Năm phương pháp giúp tin tái sanh.
Có năm phương pháp giúp chúng ta chấp nhận có tái sanh.
1. Thứ nhất là suy nghĩ đúng đắn về sự khác biệt nhân cách và năng khiếu giữa những người con cùng một gia đình. Tại sao, người cùng một gia đình, được hưởng một sự giáo dục gần giống nhau lại có thể khác biệt rất nhiều về nhân cách và năng khiếu. Có người con thì tánh tình rất tốt, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, trái lại, có người con thì tánh tình hung dữ, chỉ muốn hại người. Sự khác biệt giữa các người lớn có thể thấy trong thái độ của họ đối với tôn giáo. Có người rất ghét tôn giáo, nhưng cũng có người rất thích nghe giảng kinh sách tôn giáo, dù đó là Thiên Chúa giáo hay Phật giáo; ghét và yêu tôn giáo đối với họ như thành bản năng. Phải chăng đó là do những người đó, trong một đời sống trước cũng đã từng căm ghét và yêu thích tôn giáo như bây giờ. Có người học một ngoại ngữ rất là dễ dàng, nhưng có người khác thấy đó là vô cùng khó khăn.
Người đời này học ngoại ngữ dễ dàng phải chăng trong một đời sống trước đã từng học ngoại ngữ rồi, và đời này nói học ngoại ngữ chỉ là học lại mà thôi. Còn người học ngoại ngữ rất khó khăn là vì anh ta , trong đời sống trước chưa từng học ngoại ngữ bao giờ.
2. Chứng cớ thứ hai giúp chúng ta suy đoán là có tái sanh là tính liên tục của tâm thức. Tâm thức chúng ta là một dòng liên tục của những niệm sanh diệt không ngừng; niệm trước diệt là cái nhân trực tiếp giúp chi niệm sau sanh khởi. Không có niệm trước diệt thì niệm sau không thể sanh khởi. Niệm đầu tiên sanh khởi của thai nhi cũng phải do niệm trước diệt thì mới sanh khởi được. Và niệm trước đó, chỉ có thể là thuộc đời sống trưác, hay là thuộc thân trung ánh của một đời sống trước, trong trường hợp có thân trung ánh.
3. Chứng cớ từ mộng: có 3 loại mộng. Một loại mộng có liên quan đến những sự việc ở đời này, thí dụ: nằm mơ thấy lại những sự việc thời thơ ấu. Một loại mộng khác liên quan đến những sự việc sẽ xảy ra cũng trong đời này. Loại mộng thứ ba có liên quan đến những cuộc sống quá khứ, như các giấc mộng đã nói ở trên của Arthur FLowerdew.
Sự việc thuộc loại mộng thứ ba không thể xảy ra ở đời này được; thí dụ, chúng ta nằm mơ thấy mình đang bay. Nếu loại mộng này xảy ra thường xuyên thì rất có thể trong một đời sống trước, chúng ta đã đạt tới một trình độ thiền định khiến chúng ta bay được. Hiện tượng người bay được nhờ thiền định là chuyện có thực, quan sát được. Hiện tượng này tiếng Pháp hay tiếng Anh đều gọi là Levitaio.
Nội dung sự việc có thể không thuộc một đời sống quá khứ mà thuộc một đời sống tương lai. Thí dụ, kẻ sống ác có thể nằm mơ thấy mình bị thiêu cháy trong lửa địa ngục, hay là cảm thấy lạnh giá như trong địa ngục lạnh, đến nổi đắp lên bao nhiêu chăn trên người cũng không chịu được. Trái lại, người sống thiện lành có thể có những giấc mơ đẹp, như là sống trong cảnh bồng lai hay trong cung điện nhà trời. Qua những loại mộng như vậy, có thể suy đoán là phải có các cuộc sống khác với cuộc sống hiện tại, tức là có tái sanh.
4. Chứng cớ thứ tư: là thế giới đã thu thập rất nhiều chuyện của những người hoặc là trẻ con, hoặc là người lớn đã nhớ lại các kiếp sống trước của mình. Ở đầu bài này, tôi đã nhắc lại các chuyện được ghi trong cuốn "Exploration of reincarnation" (Nghiên cứu tái sanh) của Tendam, hay là trong cuốn sách của giáo sư Stevenson (sách đã dẫn).
5. Đối với những Phật tử thuần thành, những lời Phật nói về các cuộc sống trước của Ngài đã đủ để khẳng định có tái sanh. Tất nhiên, đối với những người không phải là Phật tử thì câu chuyện về các kiếp sống trước của Phật không đủ sức thuyết phục.
Để kết luận, có thể nói, có những điều chúng ta tuy không thấy, nhưng có thể suy đoán bằng lập luận lôgích, như tuy không thấ lửa, nhưng vẫn suy đoán là có lửa vì thấy có khói bốc lên. Cũng như vậy, tuy không chứng kiến sự tái sanh, nhưng vẫn có thể dựa vào 4 loại chứng cớ nói trên mà suy đoán có sự tái sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2015(Xem: 7007)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 10710)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 6593)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 5854)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 5598)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 23684)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 7543)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 8500)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 34497)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
12/11/2014(Xem: 8173)
Sống tròn 100 tuổi, bà chưa một lần tắm gội, chưa một lần uống thuốc, đi viện, cũng không ăn cơm, nhưng cơ thể vẫn thơm tho, khỏe mạnh, minh mẫn tới tận ngày mất. Cuộc đời gắn với chữ “không” cùng những khả năng kỳ lạ, không lời giải trong việc trị bệnh, tiên đoán thời thế bằng kiến thức tâm linh khiến bà trở thành một nhân vật huyền thoại, được môn đệ từ khắp nơi thờ phụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567