Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhu cầu cho lý trí trong thời đại tạo sinh vô tính

08/04/201319:35(Xem: 4241)
Nhu cầu cho lý trí trong thời đại tạo sinh vô tính

Giới Thiệu Bài Mới

Nhu Cầu Cho Lý Trí Trong Thời Đại Tạo Sinh Vô Tính

Nguyễn Văn Tuấn

Nguồn:http://giaodiem.com/doithoaiIII/nvtuan_cloning.htm



Các nhà khoa học đã thay thế vai trò của 'thuyết sáng tạo' tưởng tượng: Dr. Rael tuyên bố thành lập công ty tạo sinh vô tính đầu tiên ở Canada năm 1997.



Bào thai người qua ‘tạo sinh vô tính ’ (Photos trademark by CloneAid comp.| Caption by Giaodiem)

Qua báo chí [1], một công ty sinh học ở Canada, Clonaid, có liên quan mật thiết với một giáo phái khá kỳ dị có tên là Rael [2], tuyên bố rằng họ đã thành công sáng tạo ra một bé gái bằng công nghệ tạo sinh vô tính (còn gọi là cloning) [3]. Tên của em bé là Eve. Từ khi tin này được loan truyền đi, dư luận thế giới bàn tán một cách mê loạn, từ hoài nghi đến lên án. Chính phủ nhiều nước trên thế giới, kể cả Pháp và Mỹ, kêu gọi tẩy chay, thậm chí cấm đoán hoàn toàn công nghệ tạo sinh vô tính.

Những người “talking-heads”, những nhà bình luận thời sự loại “mì ăn liền”, hùng hồn tuyên bố rằng, một lần nữa, bóng ma của Thế giới mới đang làm trò ảo thuật, mà trong đó con người được sản sinh theo đơn đặt hàng. Những nhà bình luận này hỏi: có phải chúng ta hy sinh nhân tính của chúng ta trên bàn thờ khoa học? Nhưng câu hỏi mà một người có lý trí cần đặt ra là: có thật như thế không? Và, tại sao xã hội có vẻ sẵn sàng tin vào những điều như thế?

Trong thực tế hiện nay, giới khoa học vẫn không tin rằng công ty Clonaid có khả năng kỹ thuật để sản sinh một trẻ em bằng tạo sinh vô tính. Nhưng cũng không nên bác bỏ hoàn toàn rằng họ không có khả năng làm chuyện này chỉ vì chúng ta chưa biết thành tích của họ trong lĩnh vực này. Dựa vào niềm tin của giáo phái Rael (rằng từ nguyên thủy con người được những sinh vật ngoài hành tinh sáng tạo ra) thì việc họ tự nhận rằng họ đã sản sinh trẻ em bằng tạo sinh vô tính là điều hoàn toàn có thể đoán được, nhưng về mặt kỹ thuật điều mà họ tự nhận hoàn toàn rất đáng nghi ngờ. Theo kinh nghiệm của giới chuyên môn, hiệu quả của tạo sinh vô tính hiện nay vẫn còn rất thấp. Tỷ lệ thành công chỉ khoảng 0.1 đến 3%. Tức là trong 1000 lần thử nghiệm, chỉ có 30 trường hợp thành công. Nhưng theo Tiến sĩ Boisselier, người chủ trì công trình tạo sinh vô tính cho Công ty Clonaid, tỷ lệ thành công trong phòng thí nghiệm của bà là 50%!

Theo giới chuyên môn, hiện nay kỹ thuật tạo sinh vô tính chưa hoàn hảo, vẫn còn đang trong vòng nghiên cứu, và không thể đem ra ứng dụng để tạo nên một con người như nhiều người lầm tưởng. Thử nghiệm trong các động vật cấp thấp như chuột cho thấy các “sản phẩm” của tạo sinh vô tính thường có nhiều dị tật, nhiều bệnh tật, và tuổi thọ trung bình rất thấp.

Ngay cả khi thành công, một sinh vật được tạo bằng tạo sinh vô tính tuy có cùng DNA với bản chính, nhưng hoạt động của gien có thể khác với người cho DNA. Trong môi trường tự nhiên, DNA trong phôi được lập trình sao cho một số gien hoạt hóa. Khi phôi bắt đầu phân chia, chương trình hoạt động thay đổi. Mỗi tế bào, máu, da, xương, thần kinh, chương trình này hoạt động khác nhau. Trong tạo sinh vô tính, cái nhân được cấy vào trứng không có cùng chương trình hoạt động của cái phôi tự nhiên. Nhà khoa học phải huấn luyện và lập chương cho cái nhân, giống như huấn luyện con chó những mưu mẹo hàng ngày. Nếu lập chương hoàn hảo, thì quá trình phát triển sẽ bình thường. Nếu lập chương sai hay không hoàn hảo, phôi sẽ phát triển bất bình thường và có thể sẩy thai.

Tuy nhiên, vấn đề chính hiện nay là cuộc thảo luận hiện nay về việc tẩy chay các kỹ thuật tạo sinh vô tính không phải là một cuộc thảo luận khoa học, vì nó đang được những người không biết gì về khoa học hay những người mà kiến thức chuyên môn còn rất mù mờ cầm đầu. Những người ồn ào này chẳng biết những chi tiết quan trọng trong kỹ thuật tạo sinh vô tính, và không biết những lợi và hại của kỹ thuật này sẽ đem lại cho con người ra sao. Những gì họ biết là một niềm tin sắt đá (như niềm tin tôn giáo) rằng tạo sinh vô tính là một việc cực kỳ kinh tởm. Từ đó, họ cho rằng tốt hơn hết là không nên biết về kỹ thuật này, bởi vì – theo họ – một khi chúng ta biết, chúng ta có thể làm những chuyện “động trời”, trái với đạo lý mà chúng ta từng biết.

Đây là một lối suy nghĩ theo Nguyên lý phòng ngừa (Precautionary principle) hiện đang rất thịnh hành trong các xã hội Tây phương thời hậu hiện đại. Chủ trương của Nguyên lý phòng ngừa là tẩy chay tất cả những gì được xem là nguy hiểm, ngay cả những nguy hiểm này chưa trở thành thực tế trong tương tai hay hiện tại. Nói một cách khác, những người theo Nguyên lý phòng ngừa lấy sự ngu dốt làm niềm hạnh phúc. Nguyên lý này còn nguy hiểm hơn cả những trò hề và tuyên bố hoang đường của một nhóm người kỳ quặc như Rael. Quan điểm phản nhân loại này cho rằng một khi xã hội biết được một phương cách khoa học và công nghệ nào đó, con người sẽ dùng nó vào những mục tiêu nguy hiểm chống lại con người. Thành ra, trong bối cảnh hiện nay, những người ồn ào “tranh luận” về tạo sinh vô tính không cần biết đến những phải hay trái của những đứa bé tạo sinh vô tính trong giả thuyết, mà thực chất nó biểu hiện sự mất niềm tin vào chính chúng ta và vào tương lai.

Thử tưởng tượng, nếu khoa học trong thế kỷ 19 hay 20 phát triển theo những suy nghĩ của Nguyên lý phòng ngừa, thì chúng ta đã không có những thuật giải phẫu ngoạn mục, những quang tuyến X, ghép và cấy mô (transplants), thuốc trụ sinh. Nếu phong trào Nguyên lý phòng ngừa là kim chỉ nam hành động thời đó, những phát triển quan trọng cứu người này chắc chắn sẽ không thành hiện thực, bởi vì họ lý giải rằng không ai biết trước những thiệt hại, và tốt hơn hết là đừng mạo hiểm.

Gần đây, thuật trị liệu bằng tạo sinh vô tính (therapeutic cloning techniques) được xem là có triển vọng rất lớn trong việc chữa trị các bệnh ngặt nghèo bị chận đứng trong một số nước cũng vì sự ồn ào của những người theo Nguyên lý phòng ngừa. Ở Anh và Úc chẳng hạn, trong khi các chính trị gia, khoa học gia, và nhà báo hô hào ủng hộ nghiên cứu tế bào mầm (stem cell research), họ lại chống việc nghiên cứu về tạo sinh vô tính vì họ cho rằng làm thế là đóng vai trò Thượng đế, là cướp quyền của thượng đế, cái quyền mà con người không nên có! Ở Mỹ, nhóm bảo thủ “Pro-life” gây áp lực cho chính phủ của Tổng thống George W. Bush đặt ra những điều lệ hết sức khó khăn để làm nản lòng những ai muốn nghiên cứu tế bào mầm, và hậu quả là một số khoa học gia phải bỏ Mỹ sang Âu châu lập cơ sở nghiên cứu.

Cần phải phân biệt những ích lợi của thuật trị liệu bằng tạo sinh vô tính và cuộc chạy đua toàn cầu của những nhà khoa học lập dị muốn lấy tiếng là người đầu tiên tạo con người bằng kỹ thuật tạo sinh vô tính. Nhưng dù việc làm của các nhà khoa học này còn rất mù mờ, cuộc chạy đua mở rộng biên giới của khoa học còn đáng được bàn đến hơn, bất kể lợi ích đã được chứng minh hay chưa. Nếu không, làm sao chúng ta biết được khoa học là gì, và khoa học trong bàn tay của con người có thể làm được gì.

Xuyên suốt lịch sử con người, xã hội có được những khám phá khoa học quan trọng, kể cả những phát triển trong y học, vì lòng khao khát kiến thức mới của xã hội, và sự sẵn sàng ứng dụng những kiến thức này vào xã hội, dù lợi hại không thể đoán trước được. Trong đại đa số các trường hợp, những mạo hiểm này đem lại nhiều lợi ích hơn là thiệt hại cho con người. Ngày nay, chúng ta sống lâu hơn, khỏe mạnh hơn, tiện nghi hơn so với nhiều thế hệ trước, những lợi ích mà một trăm năm về trước ông cha chúng ta xem như là không thể có được.

Cố nhiên, không có sự việc nào hoàn hảo, khoa học và công nghệ sinh học còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Nhưng không phải có vấn đề là chúng ta đầu hàng, và nhắm mắt không muốn biết đến. Điều đáng buồn là tình trạng áy náy, băn khoăn trong chúng ta trước một cuộc cách mạng khoa học ngày nay không bắt nguồn từ một ý niệm nào cụ thể cả, mà là tự sự nhắm mắt. Thật vậy, những lo lắng của chúng ta trước những kỹ thuật mới xuất phát từ sự nghi ngờ là chúng ta sẽ dùng khoa học và công nghệ vào các mục tiêu tự hủy diệt con người và hủy diệt hành tinh, làm như bất cứ ai, kể cả nhóm lập dị Rael, có khả năng làm chuyện đó!

Nhu cầu cho một cuộc tranh luận khoa học chỉ có nếu và khi một đứa bé được tạo ra bằng kỹ thuật tạo sinh vô tính. Một tranh luận như thế phải dựa vào những tiêu chí khoa học, đạo đức, và luật lệ, chứ không dựa vào những cảm tính hay những quan điểm vô duyên của Nguyên lý phòng ngừa. Nhưng chỉ một tin đồn về một trường hợp tạo sinh vô tính mà đã kích động những kêu gọi tẩy chay tất cả các kỹ thuật và khoa học của tạo sinh vô tính trên bình diện toàn cầu, thì điều đó cho thấy khả năng tri thức của xã hội ngày nay có vẻ thoái lui hơn là tiến tới. Không ai muốn có một thế giới mới với những hỗn loạn về đạo đức, nhưng cũng không ai muốn có một xã hội hoang mang đến ứ máu chỉ vì một khả dĩ.

Chúng ta không cần những thảo luận kiểu Hollywood. Chúng ta cần những thảo luận có tính cách trưởng thành của người lớn, dựa vào dữ kiện khoa học, hơn là dựa vào những sợ hãi tưởng tượng cho tương lai.




Chú thích:



[1] Xem “Sect and the situation comedy: Rael tells the gang he has cloned a baby”,The Sydney Morning Herald (30/12/2002).

[2] Giáo phái Rael tin rằng con người ngày nay là do người ngoài hành tinh sáng tạo ra khoảng 25 ngàn năm về trước.

[3] Nói một cách ngắn gọn, quá trình tạo sinh vô tính có thể được mô tả như sau: Bước 1, lấy một trứng của một phụ nữ, rút bỏ các chất liệu di truyền (tức là DNA hay ADN). Bây giờ cái trứng trở thành, nói như ngôn ngữ hàng ngày, một cái hãng sản xuất các phôi. Bước 2, lấy chất liệu di truyền DNA từ một tế bào của một người khác hay của chính người phụ nữ, rồi chuyển chất liệu này vào cái trứng. Bước 3, chuyền điện vào trứng để trứng bắt đầu hoạt động, và một khi trứng hoạt động thành công, chúng ta sẽ có một phôi. Bước 4, phôi sẽ đưa vào một môi trường sinh học (chẳng hạn như đưa vào tử cung của người phụ nữ) sao cho nó phát triển thành nhiều tế bào mầm hay thành một thai hoàn chỉnh. Bước 5, nếu không muốn cho nó phát triển thành phôi thai, có thể lấy tế bào mầm, và nếu lấy tế bào mầm thì cái phôi sẽ bị tiêu hủy. Bước 6, trong trường hợp tạo mầm vô tính (stem cells), để cho tế bào mầm phát triển thành một bộ phận con người và dùng nó cho các mục tiêu trị liệu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2024(Xem: 1110)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 6352)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1325)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3109)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 16409)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 9927)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 12160)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 16791)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
09/09/2020(Xem: 6835)
Hỏi: Thưa Thầy, luân hồi thật sự được hiểu thế nào trong Phật Giáo, hay vấn đề này bị nhầm lẫn với thuyết tái sinh trong Bà La Môn Giáo và một số tín ngưỡng Tây Phương, vì từ Hán Việt “tái sinh” tiếng Pháp viết là "réincarnation” là sự lặp lại về đơn vị gốc, ví dụ: Người giàu nghèo sang hèn v.v… cứ thế trở lại nguyên gốc. Còn tiếng Phạn saṃsāra là luân hồi là lang thang, trôi nổi. Nếu dùng bật lửa đốt cháy cây nến, điều kiện tạo lửa từ bật lửa sẽ gồm đá đánh lửa, hộp nhựa đựng khí gas, ống thông nhau, ống dẫn ga, bánh xe tạo lực ma sát vào đá lửa, vô số phân tử hóa học trong khí gas, môi trường xung quanh v.v… Trong khi các duyên bắt lửa của ngọn nến chỉ có 2 yếu tố cơ bản gồm thân đèn làm bằng sáp và tim làm bằng vải… Vậy ngọn lửa từ bật lửa có quan hệ gì với ngọn lửa của cây nến? Như thế luân hồi không phải là sự tái sinh nguyên bản mà là tâm lang thang trôi lăn chìm nổi vì tham sân si, không biết tàm quý để rồi chúng sanh cứ mãi bị cái vòng xoay đó làm cho đau khổ?
08/06/2020(Xem: 6816)
Thần đồng 9 tuổi tốt nghiệp đại học, chuẩn bị học tiến sĩ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567