Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Lớp Mật Thừa

15/12/201015:28(Xem: 10478)
Bốn Lớp Mật Thừa

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

BốnLớp Mật Thừa

Hệ thống Mật thừa được phânchia thành bốn lớp, như được nói trong mật điển diễn giải Kim Cương Điện.Như chúng ta đã thảo luận ở trên rằng, chỉ trong Mật thừa Du-già Tối Thượngđáp ứng những tính năng thậm thâm và đặc biệt nhất của của Mật thừa, do thế,chúng ta phải nhìn những Mật thừa bậc thấp như những nấc thang đi lên Mật thừaDu-già Tối Thượng. Mặc dù sự diễn giải về những cách đem khát vọng vào con đường là một tính năngchung của tất cả bốn lớp Mật thừa, thì những mức độ của khát vọng có khác nhau. Trong lớp đầu tiên của Mật thừa, Mật thừa Hành Động[1],phương pháp tiếp nhận khát vọng vào trong con đường là liếc nhìn đối ngẫu. Trong những lớp tiếp theo của Mậtthừa, những phương pháp bao gồm cười, nắm tay hay ôm và hợp nhất[2].

Bốn lớp của Mật thừa được đặttên theo chức năng và những cơ chếkhác nhau của sự tịnh hóa. Tronglớp thấp nhất của các mật điển thủ ấn hay những thế xếp của bàn tay đượcxem như quan trọng hơn du-già nội thể, vì thế được gọi là Mật thừaHành Động.

Lớp thứ hai, mà trong ấy có nhấn mạnh bình đẳng trên cả hai khía cạnh, được gọi là Mật thừa Thiện Hạnh[3]. Thứba là Mật thừa Du-già[4], lànơi Du-già nội thể được nhấn mạnhhơn những hoạt động bên ngoài.[5]Lớp thứ tư được gọi là Mật thừa Du-già TốiThượng[6]bởivì nó không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của Du-già nội thể, mà không có Mật thừanào siêu việt hơn nó.

Trường phái Nyingma Đại ToànThiện nói về chín cổ xe [cửu thừa][7]. Bathừa thứ nhất gồm đến Thanh Văn,Độc Giác, và Bồ-tát thừa mà đã cấu thành nên hệ thống kinh điển hiển giáo. Bathừa thứ hai được gọi là ngoại vithừa, cổ xe bên ngoài, gồm có Mật thừa Hành Động, Mật thừa Thiện Hạnh và Mật thừaDu-già, vì chúng nhấn mạnh sự thực hành của những hành vi bên ngoài, mặc dùchúng cũng đề cập đến với những hạnh kiểm nội thểvà ngoại vi của hành giả. Cuốicùng, có ba Mật thừa nội thể, những Mật thừađược liên hệ đến thuật ngữ Đại Toàn Thiện[8]nhưĐại Du-già, Chuyển Hóa Du-già và Siêu Việt Du-già. Ba thừa nội thể này được xemlà những phương tiện hay những cổxe để đạt đến sự kiểm soát, bởi vì chúng bao hàm những phương tiện để làm hiển lộcủa những mức độ vi tế nhất của tâm thức và năng lượng.Bằng những phương tiện này, một hành giả có thể đặt tâm thức của mình trong một trạng thái sâu thẩm ngoài sựphân biệt của tốt và xấu, thanh tịnh hay ô nhiễm, là điều có thể cho phép ngườiấy siêu việt khỏi những quy ướctrần gian.

tongquan-11

Mạn-đà-la Thời Luân



[1]Mật thừa Hành Động (Kriyātantra) —là cỗ xe đầu tiên trong 3 lớp Mật tông ngoại vi. Các Mật điển Hành Động có tênnhư thế vì chúng chú trọng chính yếu vào các hạnh kiểm bên ngoài, các thực hànhvề lễ tịnh hóa, tẩy uế và vân vân.

“Kriya Tantra”. Rigpa Shedra Wiki.<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Kriya_tantra>. Truy cập 19/08/2010.

[2]TheoAtisha's lamp for the path to enlightenment (Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Atisha): Mật thừa Hành Động cho những ai cóthể sử dụng tham chấp được gợi lên qua việc nhìn đối ngẫu nhưng không thể khốngchế tham chấp mạnh mẽ hơn. Mật thừa Thiện Hạnh cho người có khả năng tiện íchđược tham chấp gợi lên từ nụ cười và ve vãn với đối ngẫu. Mật thừa Du-già cho kẻcó thể khai thác tham chấp khởi lên từ việc sờ chạm và ôm đối ngẫu. Tất cả cácđiều này đều là các hành vi của sự quán tưởng. Mật thừa Du-già Tối Thượng chocác đối tượng có thể khống chế được tham muốn phát khởi bởi việc thật sự tiếpxúc giữa các cơ quan sinh dục. Tuy nhiên, từ quan điểm nhận thức tính Không vàthực hành du-già bổn tôn thì không có sự khác nhau giữa các lớp này.

"Atisha's lamp for the path toenlightenment". C6. P212. Geshe Sonam Rinchen. Eng. Trans. Ruth Sonam.Snow Lion. 1997. ISBN 15593908242.

[3]Mật thừa Thiện Hạnh (Caryātantra)còn gọi là Mật thừa Cận Du-già (UpaYogatantra) or hay Mật thừa Lưỡng Thể(Ubhayatantra) — là lớp thứ nhì trong 3 lớp ngoại vi. Được gọi là Mật thừa ThiệnHạnh vì nó nhấn mạnh một cách bình đẳng giữa các hành vi bên ngoài của thân khẩuvà sự nuôi dưỡng bên trong của định lực. Do đó tên Mật thừa Lưỡng Thể tương hợpvới Mật thừa Du-già trong khi hạnh kiểm của nó lại tương tự như Mật thừa Hành Động.

“Charya Tantra”. Rigpa Shedra Wiki.<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Charya_tantra>. Truy cập 19/08/2010.

[4]Mật thừa Du-già (Yogatantra) — thuộclớp ngoại vi thứ ba của Mật thừa. Được gọi như thế vì nó nhấn mạnh trên thiềndu-già nội thể, kết hợp các phương tiện thiện xảo và trí huệ.

“Yoga Tantra”. Rigpa Shedra Wiki.<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Yoga_tantra>. Truy cập 19/08/2010.

[5]Các lớp Mật thừa ngoại vi hay các lớpMật thừa thấp này có chung cho cả Cổ Mật [Ninh Mã, Nyingma] và các trường pháitân dịch. Chúng còn được gọi là Thủ trương khổ hạnh Vệ-đà bao gồm các Mật thừaHành Động, Thiện Hạnh, và Du-già.

“Three outer classes of tantra”.Rigpa Shedra.

<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Three_outer_classes_of_tantra>.Truy cập 19/08/2010.

[6]Mật thừa Du-già Tối Thượng(AnuttaraYoga, Yoganiruttara, Yogānuttara) là lớp cao nhất của bốn lớp Mật thừa.Theo truyền thống Tân dịch thì Mật thừa Tối Thượng này được chia thành Mẫu Mậtthừa [Mật thừa mẹ] , Phụ Mật thừa [Mật thừa cha] và Bất Nhị Mật thừa. Theo truyềnthừa Cổ Mật thì Mật thừa Du-già Tối Thượng tương ứng với ba Mật thừa nội thể ĐạiDu-già, Chuyển Hóa Du-già và Siêu Việt Du-già.

” Highest Yoga Tantra”. Rigpa Shedra.

<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Highest_Yoga_Tantra>.Truy cập 19/08/2010.

[7]Chín cỗ xe hay Cữu Thừa Tất Thắng —là theo cách phân loại của truyền thống Cổ Mật Toàn bộ phổ của lộ trình tu tậpcủa Phật Pháp được chia làm chín cỗ xe: Thanh Văn (Shravaka yana), Độc Giác(Pratyekabuddha yana), Bồ-tát (Bodhisattva yana), Hành Động (Kriyātantra), ThiệnHạnh (Caryātantra), Du-già (Yogatantra), Đại Du-già (mahāyoga), Chuyển HóaDu-già (Anuyoga), và Siêu Việt Du-già (Atiyoga).

“Nine Yanas”. Rigpa Shedra Wiki.<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Nine_yanas>. Truy cập 19/08/2010.

[8]Đại Toàn Thiện hay Đại Viên Mãn(Mahāsaṅdhi, Atiyoga) — là truyền thống Phật giáo cổ sơ nhất và trực hướng vềTrí Huệ trong các truyền thừa tại Tây Tạng được Sogyal Rinpoche mô tả như là “trọng tâm của tất cả lộ trình tu tập tinh thầnvà là đỉnh cao của tất cả các tiến hóa tinh thần của cá nhân. Như là một lộtrình để thực chứng bản tính nội tại nhất của tâm mà chúng ta thật sự là, thì ĐạiToàn Thiện là rõ ràng và hiệu quả nhất cũng như thích đáng nhất trong thế giớihiện đại”. Dù là pháp tu thuộc phái Cổ Mật nhưng nó được thực hành qua nhiềuthế kỷ bởi các đại sư của tất cả các trường phái khác như là tu tập tối nội.

“Dzogchen”. Rigpa Shedra Wiki.<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Great_Perfection >. Truy cập19/08/2010.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2010(Xem: 7916)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
06/12/2010(Xem: 3909)
Do quan niệm linh hồn theo nhiều cách khác nhau nên người ta vẫn bàn cãi về có hay không có linh hồn. Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập với vật chất, với bất cứ cơ quan sinh học nào của cơ thể.
06/12/2010(Xem: 3086)
Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) đang tồn tại câu chuyện khá ly kỳ. Một cháu bé cứ nằng nặc nhận mình là đứa trẻ đã chết cách đây hơn mười năm và đòi về ở với bố mẹ người đã chết. Sau khi đưa ra nhiều “bằng chứng” chứng tỏ mình là người đã chết, cháu bé đã được nhận về nuôi như một sự sống lại của linh hồn đã chết trước đó.
01/12/2010(Xem: 3941)
Hộ niệm là niệm Phật cầu nguyện cho một bệnh nhân khi nhận thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời.
18/11/2010(Xem: 5612)
THIỀN ĐỊNH: HÃY NGẮM NHÌN MỌI SỰ– bản ngã, hành động, đối tượng; bằng hữu, kẻ thù, người không quen biết, những người là đối tượng của sự tham luyến của bạn, sự sân hận, và sự vô minh; mọi hiện tượng mang lại kết quả – với sự tỉnh giác về thực tại: tất cả những điều này đều phù du, và có thể ngừng dứt bất kỳ lúc nào. Tất cả những hiện tượng này không chỉ biến đổi trong từng giây phút do bởi những nguyên nhân và điều kiện (duyên), nhưng chúng có thể kết thúc bất cứ lúc nào.
09/11/2010(Xem: 18022)
Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
31/10/2010(Xem: 7056)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác? Trong bài viết ngắn này chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề "Không sát sanh" hay "tôn trọng sự sống" như là thái độ sống của một người Phật tử.
29/10/2010(Xem: 6416)
Kính lễ Tam Bảo. Kính lễ các luận sư Jamyang Khyentse Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Sogyal Rinpoche đã giải thích giáo lý trung ấm. Trước hết nhắc lại có sáu trung ấm hay bạt đô: trung ấm trong mộng, trung ấm trong đại định, trung ấm tự nhiên của đời sống; trung ấm đau đớn của cái chết; trung ấm pháp tính (thời gian của Ánh sáng căn bản xuất hiện ngay sau khi chết); và trung ấm tái sinh. Sở dĩ có trung ấm là vì tâm vô minh bất giác: bất giác lúc sống, bất giác lúc chết, bất giác lúc gặp ánh sáng chân lý, bất giác lúc tìm tái sinh. Để hiểu bạt đô tái sinh, có lẽ nên nói thêm về tính chất của tâm.
28/10/2010(Xem: 4966)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của Lạt-ma Dagpo Rimpoché tại ngôi chùa Tây tạngKadam Tcheuling tọa lạc tại Aix-En-Provence miền nam nước Pháp, vào ngày 23tháng 3, năm 2003. Thôngdịch viên : Marie-Stelle Boussemart. Ghi chép : Laurence Harlé, MichelLanglois, Cathérine Baguet, Marie-Stella Boussemart
21/10/2010(Xem: 4898)
Khi Đức Phật còn là thái tử, trong lúc đi dạo chơi, Ngài đã trông thấy những cảnh khổ đau của kiếp sống con người là bệnh hoạn, già yếu và chết. Từ đó, cuộc sống khổ đau và tạm bợ của con người đã khiến cho thái tử suy tư rất nhiều và thôi thúc Ngài quyết tâm đi tìm cuộc sống an lạc, vĩnh hằng, bất tử. Trải qua năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh chốn rừng già và sau 49 ngày Thiền định ở Bồ đề đạo tràng, Đức Phật đã nhận thấy rõ đặc tính của cuộc sống con người nói riêng và của muôn vật, muôn loài nói chung ở trong thế giới sanh diệt là vô thường (Anicca), khổ (Dukkha) và vô ngã (Anatta).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567