Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tự tại khi những đứa con ra đi

01/05/201722:01(Xem: 4973)
Tự tại khi những đứa con ra đi


lotus_7

TỰ TẠI
KHI NHỮNG ĐỨA CON RA ĐI




 Vào thời Phật còn tại thế, có một mệnh phụ phu nhân là một Phật tử thuần thành, bà thường xuyên cúng dường Trai Tăng. Một buổi nọ, khi đang dâng thực phẩm cúng dường lên chư Tăng thì bà nhận được một tin hết sức bất hạnh trong gia đình nhưng vẫn thản nhiên, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Bà bỏ lá thư vào túi rồi tiếp tục việc dâng thức ăn cúng dường.

     Một tỳ nữ mang sữa dâng lên quý thầy được đựng trong bình cổ quý, cô vô tình bị té làm bình sữa bể tan tành. Ngài Xá Lợi Phất thấy vậy sợ phu nhân phiền não mà la rầy tỳ nữ nên liền đến khuyên nhủ: “Bình sữa đã bể thì không thể nào hàn gắn lại vì mọi thứ có tướng đều vô thường sinh diệt.”

    Bà nói: “Thưa Tôn giả, con vừa mới nhận được tin 12 đứa con trai của con đã bị nhà vua hành hình vì lời tâu dối của kẻ nịnh thần”, đây quả là chuyện bất hạnh, đớn đau nhất đối với gia đình con; nhưng đến giờ con vẫn bình tĩnh sớt bát cho chư Tăng được đầy đủ mà không hề dao động, hoang mang. Việc cái bình đã bể ấy nào có vấn đề gì.”

    Vị Phật tử này trước sự mất mát, đau thương quá lớn lao như thế mà vẫn thản nhiên, bình tĩnh, tự tại. Bà thật xứng đáng được tặng danh hiệu “Tám gió thổi chẳng động.” Chuyện đau lòng đến thế mà bà vẫn tỉnh như không để lo việc cúng dường chư Tăng được đầy đủ, trọn vẹn. Việc mất một lúc 12 đứa con trai trong cuộc đời ít có biến cố nào lớn lao hơn thế. Con người trước những thuận nghịch hoàn cảnh thường luôn thể hiện cảm xúc vui buồn rõ rệt, khi được lợi thì vui mừng, hớn hở, muốn kiếm thêm; khi bị hao hụt, mất mát, hay tổn hại thì lại buồn rầu, tiếc nuối, khổ đau. Người thế gian lúc nào cũng loanh quanh, lẩn quẩn trong vòng được-mất, hơn-thua mà sinh ra phiền muộn, khổ đau hay vui vẻ, hạnh phúc.

     Người phụ nữ này là một phu nhân quý phái được hưởng đầy đủ vinh hoa phú quý nhưng lại là một Phật tử thuần thành, bà không bao giờ cống cao ngã mạn mà khinh thường mọi người. Ngược lại, bà luôn biết cung kính người tu hành chân chính, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ hai bên, luôn thương tưởng, nâng đỡ kẻ bần cùng, cô độc.

     Bà đã có lòng tin sâu Tam bảo nên không bao giờ tỏ thái độ giận hờn hay ghét bỏ một ai. Bà là người đầu tiên thỉnh cầu đức Phật cho hàng đệ tử tại gia thọ Bát quan trai một ngày một đêm để giúp cư sĩ có điều kiện tập sự hạnh xuất gia. Nhờ truyền thống tốt đẹp đó mà ngày nay các chùa mở khóa tu một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Bà xứng đáng được tôn vinh là người phụ nữ vẹn toàn cả hai mặt tài năng và đức hạnh.

     Vào một lần nọ bà đi nghe Phật thuyết pháp, người tỳ nữ sơ ý bỏ quên chiếc áo choàng nạm ngọc quý trị giá hơn ngàn lượng vàng. Bà không quở mắng, rầy la cô tỳ nữ mà còn khen ngợi cô ta nhờ bỏ quên chiếc áo mà bà có dịp phát tâm xây dựng Tịnh xá từ số tiền đem áo đi bán. Vì giá trị của nó quá cao nên không ai mua nỗi, bà đã tự bỏ tiền ra mua lại.

     Trở lại câu chuyện khi bà đang cúng dường trai Tăng và nghe tin 12 đứa con đều bị giết vì lời tâu dối của nịnh thần. Chúng ta thấy, điểm đáng kính nể và khâm phục nơi bà là sự bình tĩnh, thản nhiên trước sự mất mát quá lớn lao. Có nhiều cha mẹ trong nhà chỉ có một đứa con bị bệnh hay bị chết họ đã khóc thương rất thảm thiết như mất đi điều quý nhất trên đời. Họ khổ đau, tiều tụy, mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày trước cơn gió mất mát, đau thương.

     Với vị mệnh phụ phu nhân này, việc sinh được 12 đứa con trai và đều được làm quan trong triều đại phong kiến là một chuyện không dễ gì nhà nào cũng có được. Đùng một cái 12 đứa con đều bị giết bởi chế độ phong kiến độc tôn, vậy mà bà vẫn không hề xao xuyến hay dao động, vẫn bình tĩnh cúng dường đúng lễ như không có chuyện gì xảy ra. Bà xứng đáng được tặng danh hiệu người phụ nữ siêu việt của mọi thời đại vì “Tám gió thổi chẳng động”. Thật sự, Tám cơn gió lốc cuộc đời chỉ cuốn trôi những ai còn tham lam, ích kỷ, đam mê hưởng thụ những lạc thú trần gian.

     Trong cõi thế gian vốn bất toàn, tương đối, cuộc sống con người có khi lên voi, gặp hoàn cảnh thuận lợi, tốt đẹp, công việc làm ăn suôn sẻ nên kiếm được nhiều tiền xây nhà cao cửa rộng, gia đình được cơm no áo ấm, sống vui vẻ với nhau. Những lúc như thế chúng ta cảm thấy hạnh phúc, an nhiên vì hiểu được ta có quả báo tốt đẹp hôm nay là do nhân tốt đã tạo trong quá khứ.

     Tuy nhiên, nếu gặp hoàn cảnh bất hạnh, khổ đau, không như ý như vị mệnh phụ nói trên chắc ta không chịu nỗi dù vẫn biết cuộc đời luôn vô thường thay đổi, được và mất là hai ngọn gió luôn làm cho ta vui mừng, phấn khởi hoặc phiền muộn, khổ đau. Có một điều không ai có thể chối cãi là khi mình được sinh ra thì ta ăn mừng sinh nhật, nên gọi là “được”. Khi có tang sự trong nhà, người thân hay chính ta qua đời thì gọi là “mất”, nên vì thế phải làm đám tang để bà con cô bác, hàng xóm láng giềng đến chia buồn, đưa tiễn.

      Như vậy rõ ràng khi sống thì được, khi chết thì mất. Thấy rõ điều này chúng ta mới hiểu thấu chuyện được-mất là lẽ đương nhiên, không có gì đáng cho ta phải lo lắng, bận lòng. Ta chỉ một lòng tin sâu nhân quả, không làm việc xấu ác mà hay làm việc thiện lành, tốt đẹp, sẵn sàng buông xả hai điều ưa-ghét vì được và mất thì sẽ bình thản, an nhiên, tự tại trong mọi hoàn cảnh.

Chết là lẽ đương nhiên

Có một Phật tử nhân ngày đầu năm đến Thiền Viện thăm Thiền sư và sau đó yêu cầu Thiền sư chúc phúc. Thiền sư liền chúc như sau: “Ông chết, cha chết, con chết, cháu chết, chắt chết, và chít chết.” Vị Phật tử nghe xong quá kinh hoàng, hoảng sợ nói: “Kính bạch thầy, hôm nay là ngày đầu năm sao thầy chúc con toàn sự chết chóc, thật là xui xẻo và bất hạnh cho gia đình chúng con.

     Con muốn gia đình, người thân được sống an vui, hạnh phúc lâu dài chớ con đâu muốn gia đình con chết chóc, đau thương như thế. Kiểu chết hàng loạt như vậy thật khủng khiếp, hãi hùng.” Thiền sư từ tốn trả lời: “Ta chúc phúc như vậy là mong cho gia đình anh được đại phước đức. Vì sao? Vì gia đình nào mà được chết theo thứ tự từ lớn đến nhỏ quả là có phước báo to lớn.

     Nếu trong một gia đình ông bà còn sống mà con cháu cứ chết dần, chết mòn thì thử hỏi gia đình đó có hạnh phúc được không? Hay là cành già không đổ mà lại đổ cành non. Có ai muốn như vậy không?”

     Thế gian này thật hạnh phúc là nhờ chết có trật tự, tức là ông già rồi thì ông chết, cha già rồi thì cha chết, con già rồi thì con chết, rồi đến cháu-chắt-chít đều theo thứ tự mà ra đi có trật tự. Chết có logic thì được gọi là hạnh phúc trọn vẹn, gia đình nào khi ông bà cha mẹ còn sống sờ sờ mà con cháu, chắt chít đều chết trước quả là một bất hạnh lớn lao. Như vậy, chúng ta thấy theo cách nhìn của thế gian khi được thì vui, khi mất thì buồn; “được” cho là an vui, hạnh phúc; “mất” cho là bất hạnh, khổ đau.

     Với cái nhìn của các vị Thiền sư thì được hay mất là lẽ đương nhiên của cuộc đời, do đó không có gì để ta đáng phải bận tâm buồn phiền, lo lắng. Cho nên, “Sanh như đắp chăn Đông, Tử như cởi áo Hạ”. Sinh ra hay mất đi là việc bình thường của thế gian, ai rồi cũng phải đến lúc như thế. Cũng như hoàn cảnh ta đang nghèo khó mà bỗng dưng trúng số 10 tờ độc đắc, đêm đó ta có chắc mình ngủ được hay phải thức trọn cả đêm? Vì từ xưa nay mình chưa bao giờ được như thế, nay khi được lại quá sức tưởng tượng nên không tài nào chợp mắt. Và cũng như thế khi có việc mất mát, đau thương, mọi thứ vất vả gầy dựng đều đội nón ra đi, ta bị sốc, bị buồn rầu, đau khổ mà tiếc nuối mãi.  

     Trong cuộc đời này có những việc thuận buồm xuôi gió nên ta được may mắn, tốt đẹp, hay còn gọi là “hên”. Ngược lại, những chuyện không may, xui rủi cứ đến với ta liên tục hết chuyện này đến chuyện khác. Chính vì những cái được-mất này mà làm ta dễ bị hụt hẫng, chới với, chơi vơi giữa dòng đời vô tận.

     Ta cảm thấy đau lòng vì sự sống này luôn tràn ngập khổ đau, để rồi chịu chết trong si cuồng, khờ dại khi không đủ năng lực làm chủ bản thân, do đó trên oán trời, dưới trách đất, đổ thừa cho xã hội sao quá bất công. Người Phật tử chân chính khi đã tin sâu nhân quả rồi thì không còn phải bận bịu, lo toan những cái được hay mất mà chỉ biết làm sao trong hiện tại điều phục được từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động luôn hướng về đạo đức mà làm các việc thiện lành, tốt đẹp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/02/2015(Xem: 8236)
Di hài nguyên vẹn trong tư thế ngồi thiền của một nhà sư tịch diệt cách nay 200 năm vừa được tìm thấy ở Mông Cổ. Tờ báo Siberian Times bằng tiếng Anh của Nga phát hành ngày 02 tháng 2 năm 2015, đã đưa tin này trước nhất, và sau đó các hãng thông tấn, truyền hình và báo chí khắp nơi trên thế giới tiếp tục loan báo và đã gây ra một tiếng vang không nhỏ.
12/02/2015(Xem: 7515)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 11276)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 7166)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 6387)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 6197)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 26691)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 8075)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 9138)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 35690)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]