Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 14

16/04/201312:16(Xem: 10506)
Chương 14

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 14

Chức năng của Tâm Ðổng Lực

-ooOoo-

Khi chúng ta thấy nghe, ngửi, nếm, đụng qua thân căn hoặc qua ý môn, không phải chỉ có một tâm biết cảnh qua căn môn thích hợp mà còn có cả một tiến trình tâm. Sắc pháp tiếp xúc với một trong các căn do một tiến trình tâm nhận biết. khi tiến trình căn môn đó chấm dứt, cảnh do tâm phát sanh trong tiến trình y ý môn nhận biết. Trong tiến trình căn môn và ý môn tâm sanh diệt liên tục.

Chúng ta không thể biết rằng trong cả hai tiến trình căn môn và ý môn có tâm thiện hoặc tâm bất thiện phát sanh. Vì vô minh chúng ta không biết rõ những tâm khác nhau và không nhận thức những phiền não vi tế hơn của chúng ta.

Trong tiến trình căn môn, cảnh được biết đầu tiên do tâm mà nó không phải là tâm thiện hoặc tâm bất thiện; nó được biết do tâm tố hoặc tâm quả. Tâm khán ngũ môn là một tâm tố vô nhân. Nó được nối tiếp bởi một trong những tâm ngũ song thức và tâm này là tâm quả vô nhân. Sau đó có hơn hai tâm quả vô nhân: tâm tiếp thu tiếp nhận cảnh và tâm quan sát điều tra cảnh. Tâm quan sát được nối tiếp bởi tâm phán đoán mà nó là một tâm tố vô nhân. Tâm phán đoán xác định cảnh và sau đó tiếp nối bởi tâm thiện và tâm bất thiện. Trường hợp những vị A la hán không có tâm thiện và tâm bất thiện tiếp nối tâm phân đoán nhưng là tâm tố. Khi tiến trình tâm căn môn diệt, tiến trình tâm ý môn biết cảnh. Ðầu tiên có tâm hộ kiếp và sau đó tâm khán ý môn phát sanh mà nó có chức năng hướng đến cảnh xuyên qua ý môn. Tâm khán ý môn được tâm bất thiện và tâm thiện nối tiếp trong trường hợp người đó không phải là vị A la hán. Tâm khán ý môn không phải là tâm thiện hoặc tâm bất thiện, nó là tâm tố vô nhân.

Bởi vì tâm sanh diệt nhanh chóng nên chúng ta biết những tâm phát sanh khác nhau thì không dễ dàng. Thậm chí đôi khi chúng ta không thể biết lúc nào chúng ta có tâm thiện hoặc tâm bất thiện. Ví dụ, sau khi thấy, chúng ta không thể nhận thức được lúc nào chúng ta có sự tham đắm cảnh, lúc nào có sân hận với nó hoặc khi nào có vô minh. Nếu học Giáo pháp, chúng ta sẽ biết được về tâm của chúng ta một cách chi tiết và cũng hiểu những phiền não vi tế của chúng ta hơn. Vô minh trong tâm bất thiện của chúng ta thì nguy hiểm. Nếu không biết lúc nào có tâm bất thiện thì chúng ta sẽ tiếp tục huân tập việc bất thiện.

Tâm thiện hoặc tâm bất thiện phát sanh thì chúng thực hiện một chức năng: chúng thực hiện chức năng đổng lực [1]. Trong tiến trình căn môn, tâm phán đoán đã xác định cảnh khi đổng lực tâm phát sanh. Như vậy tâm thiện hoặc tâm bất thiện theo sau chỉ có chức năng của chúng thì biết cảnh. Không chỉ có một sát na tâm thực hiện chức năng đổng lực, mà thường có bảy sát na tâm liên tục thực hiện chức năng này. Như chúng ta xem (trong chương 12) một đơn vị sắc pháp, một cảnh trần do tâm nhận biết trong một tiến trình, bằng 16 hoặc 17 lần đơn vị danh pháp. Những con số này nên biết như là một khái niệm so sánh. Trong tiến trình tâm, khoảng thời gian tồn tại của đổng lực chiếm bảy sát na tâm. Vì tâm sanh diệt rất nhanh chóng chúng ta không thể đếm được bảy sát na tâm này, tất cả chúng diễn ra như một ánh chớp.

Những tâm đổng lực phát sanh trong một tiến trình là một sự tiếp nối của bảy tâm cùng loại. Nếu tâm đổng lực đầu tiên là tâm thiện thì sự tiếp nối sáu sát na tâm cũng là tâm thiện; nếu tâm đổng lực đầu tiên là tâm bất thiện thì sự tiếp nối sáu sát na tâm cũng là tâm bất thiện. Chúng ta phải biết khi nào đổng lực tâm là tâm bất thiện có căn tham, sân, si, hoặc khi chúng là tâm thiện chăng? Hầu hết mọi lúc, chúng ta bị vô minh, ngay cả tâm đổng lực.

Có 55 loại tâm có thể thực hiện chức năng đổng lực. Trong đó có 12 tâm bất thiện thực hiện chức năng đổng lực: 8 tâm tham căn, 2 tâm sân căn và 2 tâm si căn [2].

Có 8 tâm thiện dục giới [3] được gọi là tâm đại thiện chúng thực hiện chức năng đổng lực.

Ðối với bậc A la hán có 8 tâm đại tố ( tâm tố không phải là tâm vô nhân nhưng câu hành với nhân tịnh hảo) thực hiện chức năng đổng lực Vị A la hán có tâm đại tố thay vì tâm địa thiện bởi vì các ngài không còn tạo bất cứ loại nghiệp nào. Tâm đại tố là tâm dục giới; chúng không phải là tâm thiền hoặc tâm siêu thế.

Chư vị A la hán cũng có tâm dục giới; các ngài thấy, nghe hoặc suy nghĩ các cảnh đã biết xuyên qua các căn. Tuy nhiên, Các ngài không có tâm thiện hoặc tâm bất thiện phát sanh đối với những gì các ngài đã thấy.

Ðối với các bậc A la hán cũng có tâm tố vô nhân thực hiện chức năng đổng lực mà có thể phát sanh khi các ngài mĩm cười: được gọi là Tiếu sinh tâm.

Người đạt được thiền sắc giới có thể có 5 loại tâm thiện sắc giới để thực hiện chức năng đổng lực vì có 5 tầng thiền sắc giới. Chư vị A la hán đạt được thiền sắc giới có thể có 5 loại tâm tố sắc giới để thực hiện chức năng đổng lực.

Ðối với người nào đạt được thiền vô sắc có thể có 4 loại tâm thiện vô sắc để thực hiện chức năng đổng lực, vì có 4 tầng thiền vô sắc. Chư vị A la hán chứng được thiền vô sắc có thể có 4 loại tâm tố vô sắc để thực hiện chức năng đổng lực.

Người chứng ngộ Níp bàn có những tâm siêu thế. Có 4 bậc thánh và mỗi bậc thánh này có tâm thiện siêu thế hoặc tâm đạo (Maggacitta) và tâm quả siêu thế. Như vậy có 4 bậc thánh và 4 đôi tâm tâm siêu thế: 4 tâm đạo và 4 tâm quả [4]. Tâm đạo siêu thế trổ quả ngay lập tức trong cùng những tiến trình tâm. Tâm đạo thực hiện chức năng đổng lực biết cảnh Níp bàn và tâm quả cũng thực hiện chức năng đổng lực. Tâm quả thì khác với tâm quả siêu thế không thể thực hiện chức năng đổng lực. Như vây có tất cả 8 tâm siêu thế thực hiện chức năng đổng lực.

Tất cả có 55 tâm thực hiện chức năng đổng lực. Chúng được tóm tắt như sau:

8 tâm tham căn
2 tâm sân căn
2 tâm si căn

12 tâm bất thiện

8 tâm đại thiện
8 tâm đại tố
1 tiếu sinh tâm

5 tâm thiện sắc giới
5 tâm tố sắc giới

4 tâm thiện vô sắc giới
4 tâm tố vô sắc giới

4 tâm đạo
4 tâm quả

8 tâm siêu thế

Thật là hữu ích để biết rằng khi nào tâm bất thiện phát sanh do cảnh, không chỉ đơn thuần một tâm bất thiện mà còn có bảy tâm bất thiện phát sanh trong một tiến trình và tiến trình tâm này có thể theo sau bởi những tiến trình khác cùng với những đổng lực tâm bất thiện. Mỗi khi chúng ta không thích điều gì thì có những tiến trình tâm biết cảnh, và trong mỗi tiến trình này có bảy đổng lực tâm bất thiện. Vô số tâm bất thiện có thể phát sanh do bởi điều gì chúng ta không thích hoặc bị dính mắc.

Tâm bất thiện phát sanh không ai có thể ngăn chận được; ngay khi tâm phân đoán trong tiến trình căn môn đã xác định cảnh, tâm này được nối tiếp bởi tâm bất thiện, và sau khi tâm khán ý môn đã hướng đến cảnh trong tiến trình ý môn, tâm này được nối tiếp bởi tâm bất thiện. Trong tiến trình tiếp diễn thích hợp như vậy những tâm phát sanh. Khi tâm đổng lực đầu tiên đã phát sanh nó phải được tiếp nối bởi những tâm đổng lực theo sau. Tâm đổng lực thứ nhất làm duyên cho tâm đổng lực thứ hai và tâm này trở lại làm duyên cho tâm theo sau; mỗi tâm đổng lực theo sau được làm duyên do tâm đổng lực đi trước.

Tiến trình tâm đổng lực thiện và tiến trình tâm đổng lực bất thiện có thể phát sanh rất ngắn lần lượt cái này sang cái nọ. Ví dụ, người ta tác ý cúng dường thực phẩm đến chư Tỳ khưu. Tuy nhiên, khi mua những thành phần thực phẩm để cúng dường thì họ thấy giá cả cao quá. Lúc đó họ có tâm bỏn xẻn và sau đó tâm đổng lực là những tâm bất thiện. Như vậy chúng ta thấy rằng phiền não phát sanh bất cứ lúc nào khi có điều kiện, thậm chí người ta có tác ý làm việc thiện.

Trong thời gian tâm đổng lực phát sanh chúng ta có thể tạo việc thiện hoặc bất thiện. Không ai có thể kiểm soát tâm đổng lực, nhưng biết những điều kiện cho việc thiện sẽ giúp ích cho chúng ta có những tâm thiện.

Vì lòng từ bi, Ðức Phật dạy cho chúng sanh con đường để làm giảm thiểu tâm bất thiện. Ngài khuyến khích mọi người thực hiện tất cả tâm thiện, bất kể là bố thí, trì giới hoặc tham thiền. Ngài dạy phát huy trí tuệ để đoạn trừ tất cả loại tâm bất thiện. Trí tuệ có nhiều mức độ khác nhau. Nếu chúng ta hiểu tâm thiện và tâm bất thiện là gì, lúc đó có trí tuệ, nhưng mức độ trí tuệ này không thể đoạn trừ tâm bất thiện. Khi trí tuệ chưa được phát huy đến tận cùng của tuệ giác, chánh kiến thấy những sự thật rõ ràng, vẫn có một ý niệm về bản ngã mà con người phát huy tâm thiện và xa lánh ác nghiệp. Chừng nào còn ý niệm về bản ngã thì phiền não của chúng ta chưa được đoạn trừ.

Ai chưa phải là bậc thánh phải gìn giữ 5 giới, nhưng sự khác nhau giữa vị này và bậc thánh Tu đà huờn là bậc thánh Tu đà huờn không còn phạm ngũ giới. Người không phải là bậc thánh Tu đà huờn có thể phạm 5 giới khi có điều kiện, nhưng bậc thánh Tu đà huờn có điều kiện nhưng các ngài vẫn không phạm giới. Xa hơn nữa, bậc thánh Tu đà huờn giữ giới nhưng không còn giới cấm thủ, bởi vì các ngài đã đoạn trừ tà kiến ngủ ngầm. Do đó giới các ngài thanh tịnh hơn. Các ngài trên con đường dẫn đến đoạn trừ phiền não.

Khi chúng ta chưa nhận thức về pháp chân đế, chúng ta chấp cảnh và cho nó là bản ngã. Khi trí tuệ nhận thức được cảnh mà cảnh được biết như là danh và sắc, tứ đại không có tồn tại và chúng là bản ngã rổng không, như vậy chúng ít có cơ hội cho đổng lực tâm phát sanh.

Trong Thanh tịnh đạo(I, 55), chúng t a xem Trưởng lão Mahàtissa:

...Khi trưởng lão đang trên đường từ Cetiyapabbatađến Anuràdhapurakhất thực, có một nàng dâu của một vị trưởng giả gây gỗ với chồng nên khởi hành từ sáng sớm ở Anuràdhapura,ra đi nàng trang sức lộng lẫy như tiên nữ để về nhà bà con. Trên đường đi, nàng trông thấy trưởng lão và do tâm hạ liệt nên nàng cười lớn tiếng. Ngạc nhiên cái gì đó? Ngài nhìn lên và thấy bộ xương răng của nàng do quán tưởng bất tịnh, ngài đắc quả A La Hán. Do đó có bài kệ:

"Thấy xương hàm răng của nàng
Ngài duy trì sự quán tưởng
Ngay địa điểm mà ngài đứng
Ngài ngộ quả vị La hán".

Người chồng đi tìm nàng, gặp trưởng lão anh ta hỏi: "Bạch trưởng lão ngài tình cờ có thấy một người nữ nào qua đây không? Trưởng lão đáp:

"Không rõ người nam hay nữ
Bởi vì ta không chú ý
Nhưng ta thấy trên đường này
Có một bộ xương đi qua."

Trưởng lão Mahàtissakhông chú ý cảnh tượng mà ngài thấy, không chấp tướng chung tướng riêng. Ngài nhận thức rằng khi ngài quán tưởng 'thân bất tịnh" xương răng của người nữ và ngài không chấp điều ngài quán tưởng cho là' bản ngã. "Quán tưởng thân bất tịnh để nhắc nhở chúng ta không chấp thân là bản ngã để nhận biết hiện tượng thân như là sắc pháp, chúng không tồn tại. Trưởng lão Mahàtissathấy các pháp rõ ràng; ngay lúc đó trí tuệ phát sanh và đoạn trừ tất cả phiền não.

Có vô số tâm đổng lực phát sanh trong một ngày với tham sân si, và do đó chúng ta không nên phóng dật. Chúng ta xem trong Tương Ưng Bộ Kinh (IV, Salàyatana vagga, tương ưng xứ, 50 thứ hai, chương v, 97, sống phóng dật):

Nhân duyên ở Savatthì...

Này các Tỳ khưu, ta sẽ thuyết cho các thầy về sống phóng dật và sống không phóng dật. Hãy lắng nghe.

Và này các Tỳ khưu, Thế nào là sống phóng dật?

Này các Tỳ khưu, ai sống không phòng hộ nhãn căn, như vậy tâm người đó bị nhiễm ô đối với các sắc do mắt cảm nhận. Vớii người tâm bị nhiễm ô, như vậy không có hoan hỷ. Do không hoan hỷ, nên không có hỷ lạc. Do không hỷ lạc nên không có khinh an. Do không khinh an nên khổ an trú. Do người khổ đau nên tâm không định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, các thiện pháp không phát sinh. Do các pháp không phát sinh người đó được gọi là người an trú phóng dật.

(Nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng tương tự).

Này các thầy Tỳ khưu, Thế nào gọi là sống không phóng dật?

Này các Tỳ khưu, ai sống hiếp hộ nhãn căn, tâm không bị nhiễm ô đối với các sắc do mắt cảm nhận, Với người tâm không bị nhiễm ô như vậy hoan hỷ phát sanh. Do hoan hỷ nên hỷ lạc phát sanh. Do hỷ lạc sanh nên thân được khinh an. Do thân khinh an nên có cảm thọ lạc. Với người an lạc, tâm được định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các thiện pháp được phát sinh, người đó được gọi là an trú không phóng dật.

(Nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng tương tự).

Như vậy, này chư Tỳ khưu là người an trú không phóng dật."

CÂU HỎI:

1/- Ðối với vị A la hán chỉ có tâm siêu thế thực hiện chức năng đổng lực, hoặc vị ấy cũng có thể có tâm dục giới thực hiện chức năng đổng lực?
2/- Tâm quả có thể thực hiện chức năng đổng lực không?

Chú thích:

[1] Ðổng lực đôi khi được dịch là thôi thúc hoặc tổng giác.

[2] Xem chương 4, 6 và 7.

[3] Tâm dục giới không phải là tâm thiền hoặc không phải là tâm siêu thế. Những chi tiết chúng ta sẽ xem trong chương 19.

[4] Tâm siêu thế sẽ được giải thích trong chương 23 và 24.

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2013(Xem: 18656)
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục.
02/11/2013(Xem: 6454)
Trước đây, tôi bắt đầu cuộc thảo luận này bằng cách nói về phương thức mà các pháp tồn tại chỉ đơn thuần do tâm quy ước và tiếp tục giải thích rõ các pháp chỉ mang tính quy ước là không đủ để chúng tồn tại, bởi vì một vật nào đó chỉ đơn thuần bị quy ước thì không có nghĩa nó tồn tại. Tôi tiếp tục trình bày về ba phạm trù cần thiết đối với một pháp tồn tại: nền tảng hợp lý, không có tổn hại xuất phát từ tâm vững chải của người khác và không có tổn hại xuất phát từ trí tuệ nhận thức tánh không.
31/10/2013(Xem: 18655)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 40854)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 64328)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 31218)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 42236)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
06/10/2013(Xem: 9430)
Con người chỉ là một loài động vật. Nhưng lại là một loài động vật hơn hẳn tất cả các loài khác trên mặt đất này. Các loài thú thường thì có loài phải sống tập đoàn, có loài chỉ sống riêng lẻ, trừ những lúc cần gặp nhau để giao phối, rồi lại trở về cuộc sống riêng biệt. Loài người, trái lại, có thể sống quây quần bên nhau nhưng lại có những riêng tư --nhiều khi đó lại là những riêng tư không thể chia sẻ với ai được, sống để bụng chết mang theo:
18/09/2013(Xem: 14408)
Bản luận này ngoài các bài tựa ra còn có 26 chương. 25 chương đầu trình bày cụ thể triết lý căn bản giáo lý Phật giáo, giải thích hiện tượng vũ trụ nhân sinh quy về bản thể Chân như tuyệt đối. Chương thứ 26 trình bày vai trò của pháp tu Tịnh độ; và có phải đây là mục đích Luận chủ giúp người đọc trước hết nhận thức rõ ràng vấn đề và sau đó tìm về một pháp tu thích hợp? Mong những ai có dịp đọc trọn tác phẩm này có thể tìm được câu trả lời cho chính mình!
26/06/2013(Xem: 12561)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta ra khỏi đại dương của Luân hồi, cơ sở con người đó giúp ta biết lắng nghe, suy nghĩ và thiền định, cả ngày lẫn đêm không ngưng nghỉ, đấy là cách tu tập của những người Bồ-tát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]