Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo, Khoa học và Công nghệ: những Thách thức Đối với Tôn giáo từ Thế giới Số hóa

16/05/202309:11(Xem: 5242)
Phật giáo, Khoa học và Công nghệ: những Thách thức Đối với Tôn giáo từ Thế giới Số hóa

phatgiao-khoa hoc

Phật giáo, Khoa học và Công nghệ:
những Thách thức Đối với Tôn giáo từ Thế giới Số hóa

(Buddhism, Science and Technology:
Challenges to Religions from a Digitalized World)




Được sự tài trợ bởi Quỹ Từ thiện Glorisun, Hội thảo này được điều hành bởi Mạng lưới Nghiên cứu Toàn cầu Glorisun (https://glorisunglobalnetwork.org) và FROGBEAR (www.frogbear.org) tại Đại học British Columbia, và được tổ chức bởi Đại học British Columbia. Hồng Kông. Sự kiện sẽ diễn ra từ ngày 09-12 tháng 08 năm 2023 tại Hồng Kông.

Phật giáo và khoa học đại diện cho hai lĩnh vực khác biệt rõ ràng, với những mục tiêu khác nhau, các phương pháp tiếp cận để đạt được các mục tiêu, và tác động của chúng đối với thế giới. Ở dạng sơ khai, trên hết, Phật giáo phát minh các phương pháp giải thoát luân hồi lục đạo và đạt đến chân lý tối thượng.

Sau này trong Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna Buddhism, 大乘佛教), các mục tiêu mở rộng để trải khắp từ bi tâm và mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Trong khi đó, Khoa học phát triển bằng cách tìm hiểu khách quan về thế giới và bằng công nghệ tiên tiến. Các nguyên lý trung tâm của nó là chủ nghĩa kinh nghiệm và một loại nhận thức luận bắt nguồn từ logic học. Mục tiêu của nó là giải thích thế giới chưa biết và mang lại tiến bộ tiện nghi vật chất cho xã hội loài người. Nó được đánh dấu bằng ‘Có thể nghiệm chứng’ (verifiability, 可驗證性) và nó phát triển bằng cách liên tục xác minh các giả thuyết thông qua các thử nghiệm và sự sai sót.

Tuy nhiên, trong lịch sử, trên thực tế mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và Phật giáo đã là một cộng sinh. Ví dụ, trong Phật giáo Ấn Độ, các vị tu sĩ Phật giáo không chỉ đóng vai trò ‘người chữa lành’ tâm hồn mà còn thể chất nữa.

Tương tự như thế, tại Phật giáo Trung Hoa thời trung cổ, Y học Phật giáo đã góp phần điều trị bệnh nhiệt đới. Hơn nữa, khi ánh sáng Phật pháp từ bi, trí tuệ, hùng lực, tự do, bình đẳng lan tỏa đến Trung Hoa, nó mang theo kiến thức về toán học, chiêm tinh, phép tính lịch, phẫu thuật và hóa học của Ấn Độ, tất cả đều mở rộng chân trời của khoa học Trung Hoa.

Ví dụ, Thiền sư Nhất Hạnh (一行禪師, 683-727), hiệu Đại Tuệ thiền sư, lịch pháp số học gia, nhà khoa học Trung Quốc thời Đường. Ngài được đánh giá là nhà khoa học lớn nhất thời Đường và một trong những nhà khoa học lớn nhất của Trung Quốc cổ đại. Tương tự như thế, việc phát minh ra Hỏa dược (Thuốc súng) từ Phật tử, một trong 4 phát minh vĩ đại của nước Trung Hoa cổ, trong khi sự ra đời của các bản in khắc gỗ cũng được tạo điều kiện thuận lợi bởi nhu cầu phân phát rộng rãi các kinh điển đạo Phật cho các Phật tử.

Đồng thời, Phật giáo Trung Hoa lan rộng ra nước ngoài thông qua nỗ lực của các nhà truyền bá chính pháp Phật đà như Luật sư Giám Chân (鑑真, 688-763), một nhà sư Trung Quốc theo Nam Sơn tông của giáo phái Luật tông. Ngài đến Nhật Bản năm 754 và sáng lập Luật tông. Nơi đây, Ngài được cả nước Nhật hoan nghênh sùng ngưỡng và được Nhật hoàng phong chức Truyền Đăng Đại Pháp sư. Vì tinh thông y dược nên Ngài cũng có cống hiến lớn cho y dược học Nhật Bản. Ngài chẳng những mang Luật học Phật giáo mà còn cả văn hóa và khoa học và công nghệ Trung Hoa đến đất nước Nhật Bản. Những nhập khẩu tinh hoa văn hóa này sau này đã có sự ảnh hưởng không thể xóa nhà trong nền văn minh Nhật Bản.

Phật giáo và khoa học đều nhấn mạnh đến quan sát và xác minh thực nghiệm như là cách tiếp cận kiến thức. Như thế là khoa học thông qua thử nghiệm, trong khi Phật tử chứng nghiệm chân lý thông qua thiền định và chánh niệm. Mặc dù cách tiếp cận khác nhau, cả Phật giáo và khoa học đều nhằm mục đích giải quyết các thắc mắc về tầm quan trọng của hiện sinh, với một số nghiên cứu khoa học thậm chí còn khẳng định, ở một mức độ nào đó, giải đáp những thắc mắc của Phật giáo bởi những câu hỏi này.

Sự tách biệt giữa Phật giáo và khoa học là một phát minh cuối thời hiện đại. Nó xuất hiện sau cuộc Cách mạng Công nghiệp chứng kiến sự phân chia kỷ luật và lao động xã hội ngày càng hoàn hảo hơn. Do đó, Khoa học và Phật giáo được xếp vào hai lĩnh vực riêng biệt và thậm chí đôi khi còn được miêu tả là đối lập nhau. Trên thực tế, trong suốt lịch sử Phật giáo và khoa học đã bổ sung cho nhau. Ngay cả hiện nay, Phật giáo vẫn có thể cung cấp thông tin cho khoa học khi khoa học còn thiếu sót, đặc biệt là trước những thách thức đi kèm với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển ồ ạt công nghệ. Chúng bao gồm những thách thức do trí tuệ nhân tạo (AI) đặt ra cho số phận của nhân loại, bùng nổ dân số và ô nhiễm môi trường. Chúng tôi để xuất danh sách về các chủ đề cho hội thảo khoa học này:

* Phật giáo và Y thuật (Buddhism and medicine);

* Phật giáo và Toán học (Buddhism and mathematics);

* Phật giáo và Thiên văn học (Buddhism and astronomy);

* Phật giáo và lịch pháp thuật toán (Buddhism and calendrical calculation);

* Phật giáo và ấn bản (Buddhism and printing);

* Phật giáo và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật (Buddhism and scientific and technological revolutions);

* Phật giáo và giao thoa văn hóa khoa học (Buddhism and cross-cultural transmission of science);

* Phật giáo và trí tuệ nhân tạo (Buddhism and Artificial Intelligence).

Yêu cầu cho đề xuất

Ban tổ chức hội thảo quốc tế với chủ đề “Phật giáo, Khoa học và Công nghệ: những Thách thức Đối với Tôn giáo từ Thế giới Số hóa” trân trọng kính mời các bạn gửi bài tham luận liên quan.

Ban tổ chức hoan nghênh bất kỳ bài viết nào liên quan đến chủ đề đã viết xong, phiên dịch và truyền bá thánh điển Phật giáo. Tất cả các chi phí liên quan, bao gồm phòng nghỉ và bảng trong hội thảo, sẽ được chi trả bởi ban tổ chức nơi đăng cai. Tùy thuộc vào sự cần thiết và khả năng tài trợ, một số chi phí đi lại cũng có thể được chi trả. Vui lòng gửi email các đề xuất và CV đến [email protected] trước ngày 15 tháng 4 năm 20123. Các học giả tự tin hoàn thành các bài tham luận trước giữa tháng 7 và hoàn thiện bài trước giữa tháng 11 năm 2023 đều được hoan nghênh đăng ký.

Hội thảo này được lên kế hoạch như một phần của Chương trình Quốc tế và Chuyên sâu thường niên của chúng tôi về Phật giáo.

Tác giả: Hong Kong, China
Việt dịch: Thích Vân Phong
Nguồn: Glorisun Global Network





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/01/2014(Xem: 9097)
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín có từ “phát thú đạo tướng” , phân tách Tướng Đạo mà tất cả chư Phật chứng đắc, tất cả chư vị Bồ Tát phát tâm tu hành để mau chứng đắc quả vị Phật. Trên có từ “Phát Thú” nghĩa là phát tâm hướng về, cất bước ra đi hướng thẳng về một mục tiêu nhất định gọi là “Thú Hướng”. “Phát Thú Đạo Tướng” nghĩa là phân định các tướng sai khác của sự phát tâm hướng đến Đạo. Đạo tức là Bồ Đề, Niết Bàn mà chư Phật đã chứng đắc. Đó là Bản Giác, Nhất Tâm Chân Như, tự tướng của Nhất
19/01/2014(Xem: 8787)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
12/01/2014(Xem: 11871)
Johan Galtung là Giáo sư Đại học Hawaii và được mời thỉnh giảng trên 30 Đại học nổi tiếng khắp thế giới. Ông còn là Giám Đốc của Transcend và Peace Research Institute, Olso. Với trên 50 ấn phẩm và 1000 công trình nghiên cứu khoa học về Hoà Binh ông đã nổi danh là người sáng lập cho lĩnh vực Peace Studies. Với những đóng góp to lớn này ông được nhiều giải thưỏng cao qúy. Tác phẩm chính trong lĩnh vực Phật học là „Buddhism: A Quest for Unity and Peace” (1993). Các tiểu tựa là của người dịch.
25/12/2013(Xem: 6995)
Toàn tri toàn giác không thể được phát sinh mà không có nguyên nhân, bởi vì đâu phải mọi thứ luôn luôn là tòan tri toàn giác đâu. Nếu mọi thứ được sinh ra mà không liên hệ đến điều gì khác, chúng có thể tồn tại mà không có sự câu thúc - sẽ không có lý do tại sao mọi thứ không thể là toàn tri toàn giác.
24/12/2013(Xem: 7979)
Phần khảo sát trong Phật Học Từ Điển (đã trích dẫn) viết về Chân Như như sau: “Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt. Cái Chân Như thì đầy đủ nơi Phật. Nó cũng vẫn có nơi chúng sinh. Những chử dưới đều đồng nghĩa, đồng thể với Chân Như: Tự tánh thanh tịnh, Phật tánh, Pháp Thân, Như Lai Tạng, thật tướng, pháp giới, pháp tánh, viên thành thật tánh, Pháp vị.” Trong Duy Thức Luận có viết về ba Chân Như như sau: 1/ Vô tướng Chân Như: Chân Như không tướng; là cái thể của các pháp khắp cả, không có tướng hư chấp. 2/ Vô sanh Chân Như: Chân Như không sanh; các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra chứ hẳn là không thật có sanh .
24/12/2013(Xem: 10234)
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì : “Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác (vốn tỉnh giác sẳn). Cái Bổn Gíac ấy do bề trong ung đúc và nhờ cái duyên ngoài thầy dạy, mới khởi ra cái lòng chán chuyện tham cứu thuận theo bổn giác lần lần sanh ra có trí giác ngộ kêu là Thủy Giác (sau mới tỉnh giác). Bổn Giác đó tức là bốn đức (thường, lạc, ngã, tịnh) vốn thành sẵn vậy. Thủy Giác là bốn đức mới thành ra sau nầy vậy.”
20/12/2013(Xem: 37849)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
17/12/2013(Xem: 18252)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 8978)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
14/12/2013(Xem: 36726)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]