Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cơ học Lượng tử Xuất phát từ Triết học Phật giáo?

07/12/202122:49(Xem: 6528)
Cơ học Lượng tử Xuất phát từ Triết học Phật giáo?

buddha

Cơ học Lượng tử Xuất phát từ Triết học Phật giáo?
(Does quantum mechanics favor Buddhist philosophy?)

Triết học Phật giáo và Cơ học Lượng tử luôn có sự hỗ tương cho nhau.

 

* Sự kỳ lạ của Cơ học Lượng tử đến mức thách thức các nhà khoa học và triết học tìm hiểu một số nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế. * Một nỗ lực để tìm cách diễn giải Copenhagen, và một số người tin rằng cách lý giải này dựa vào Thế giới quan Phật giáo. * Mặc dù tôi là một Phật tử nhưng tôi phản bác quan điểm vật lý học chứng minh Thế giới quan Phật giáo.

 

Cuốn sách đầu tiên tôi đọc về Cơ học Lượng tử không phải là sách giáo khoa. Thay vào đó là tác phẩm "Đạo của Vật lý" (The Tao of Physics, 物理學之道) của tác giả Fritjof Capra, được xuất bản lần đầu năm 1974. Kể từ đó đến nay, khoảng trên một triệu cuốn sách này đã đến tay độc giả với trên mười thứ tiếng khác nhau. Một cuốn sách bán chạy nhất vào những thập niên 1975, tuyên bố rằng những khám phá trong Cơ học Lượng tử đã có sự hỗ tương cho nhau giữa Thế giới quan Phật giáo cổ đại. Tôi đọc tác phẩm "Đạo của Vật lý" được xuất bản lần thứ nhất; và trong đó, tác giả Fritjof Capra, vị giáo sư ngành vật lý tại các đại học và các viện nghiên cứu tiếng tăm tại Mỹ và Anh đã đưa ra những miêu tả tuyệt đẹp về cả Khoa học Lượng tử và Triết học Phật giáo.

 

Tôi đã phải trả giá từng . . . từng phần riêng biệt.

 

Bốn mươi năm sau, tôi vừa là một hành giả Phật giáo (đặc biệt thực nghiệm thiền định) vừa là một nhà vật lý với niềm quan tâm sâu sắc đến các cơ sở lượng tử. Nhưng tôi chưa bao giờ tin vào tuyên bố rằng những khám phá trong Cơ học Lượng tử đã có sự hỗ tương cho nhau giữa Thế giới quan Phật giáo cổ đại, và hôm nay tôi muốn suy ngẫm về mối liên kết sai lầm đó, có lẽ là một cách tốt hơn để tư duy giữa Phật giáo và Vật lý.

 

Phật giáo có thuận theo tự nhiên từ Cơ học Lượng tử không?

 

Cuốn sách của tác giả Fritjof Capra, vị giáo sư ngành vật lý tại các đại học và các viện nghiên cứu tiếng tăm tại Mỹ và Anh là một phần của làn sóng quan tâm đến cái gọi là "triết học phương Đông" và khoa học vật lý lượng tử. Ngoài ra, còn có tác phẩm "Điệu Vũ Của Các Thầy Vật-Lý" (The Dancing of Wu-Li Masters) của Tiểu thuyết gia Gary Zukav. Chẳng bao lâu nó đã trở thành một yếu tố chính của Mumbo-Jumbo thời đại mới để gắn "Lượng tử" trước bất cứ thứ gì đang được tung ra: Chữa bệnh lượng tử, Tâm linh lượng tử, làm sạch ruột kết lượng tử. Trong khi đầu tiên sự thúc đẩy của Giáo sư Vật lý Fritjof Capra và Tiểu thuyết gia Gary Zukav đều thực sự thể hiện sự quan tâm đến việc làm thế nào những điều kỳ lạ nổi tiếng của Cơ học Lượng tử phủ lên lãnh thổ mới (đối với những sinh viên phương Tây này) của triết học Phật giáo, mọi thứ nhanh chóng vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Ví như vụ nghiêm trọng nhất về vòng xoáy đi xuống là Quyền Năng Vô Hạn (What the BLEEP Do We Know 2004). Đây là một bộ phim kết hợp phỏng vấn theo phong cách tài liệu, hoạt hình đồ họa máy tính, và một câu chuyện thừa nhận sự kết nối tâm linh giữa vật lý lượng tử và ý thức.

 

Đầu tiên phát hành tại các rạp vào năm 2004, What the BLEEP Do We Know đã trở thành một trong những bộ phim tài liệu thành công nhất mọi thời đại. Bây giờ phân phối tại hơn 30 quốc gia, nó đã thu phục được khán giả với sự pha trộn của 1 bộ phim đầy kịch tính, tài liệu, hoạt hình, và phim hài, trong khi pha trộn các kiến thức về vật lý lượng tử, tâm linh, thần kinh học và tư tưởng tiến hóa. Thực sự điều đó đầy vô nghĩa đến nỗi tôi ném hộp bắp rang của mình vào màn hình trong khi xem.

 

Như vậy, vấn đề mà chúng ta có thể gọi là "Phật giáo lượng tử" là gì?

 

Hãy bắt đầu của mọi thứ khía cạnh vật lý. Vật lý lượng tử là lý thuyết xử lý những thứ rất nhỏ như nguyên tử, proton và quark. Thực sự kỳ lạ bởi vật lý ở quy mô cực nhỏ này mà chúng ta đã học ở quy mô con người hơn. Điều kỳ lạ quan trọng nhất đối với quan hệ Phật giáo là "Vấn đề đo lường". Giống như cơ học cổ điển được điều chỉnh bởi các phương trình Newton, Cơ học Lượng tử có các phương trình Schrodinger miêu tả cách hệ thống lượng tử phát triển. Nhưng đây là phần kỳ lạ: Sau khi hệ thống được quan sát, các phương trình Schrodinger không còn được áp dụng nữa. Phép đo lường được ưu tiên hơn phương trình. Tại sao một hệ thống vật lý cần quan tâm đến việc nó được quan sát? Không ai biết, và mọi người đã tranh cải về "Vấn đề đo lường" kể từ khi Cơ học Lượng tử lần đầu tiên được hình thành.

 

Những lập luận nêu trên đã được kết tinh thành danh từ Diễn giải lượng tử. Mặc dù các nhà vật lý biết chính xác cách áp dụng các quy tắc của Cơ học Lượng tử để thiết kế những thứ như la-de và máy tính, nhưng họ không đồng ý về ý nghĩa của các phương trình theo nghĩa triết học. Họ không biết cách diễn giải chúng.

 

Đây là nơi mà Phật giáo xuất hiện. Có một cách Diễn giải về Cơ học Lượng tử rất phù hợp với các quan điểm triết học Phật giáo. Giáo sư Vật lý Fritjof Capra và những người khác lưu ý rằng, cách giải thích Copenhagen, được phát triển bởi nhiều nhà sáng lập khoa học nguyên tử, đã coi Cơ học Lượng tử mang lại cho chúng ta một cái gì đó khác với bức tranh khách quan về nguyên tử như những quả bóng nhỏ tồn tại trong chính chúng. Thay vào đó, Cơ học Lượng tử thể hiện một kiểu vướng mắc giữa của người quan sát và người bị quan sát. Đối với những người theo cách giải thích Copenhagen, Cơ học Lượng tử là Nhận thức luận hơn là Bản thể học. Đây là việc khám phá kiến thức về cách thế giới hoạt động thay vì cố gắng xác định một quan điểm "đúng". Nói cách khác, cách giải thích Copenhagen cho rằng, không có cái nhìn Thiên nhãn hoàn toàn khách quan về vũ trụ.

 

Hoặc ít nhất, Phật giáo là phiên bản của họ được biết đến nhiều ở phương Tây, cũng tập trung vào Nhận thức luận và tách rời ý tưởng về một quan điểm hoàn toàn khách quan về kinh nghiệm. Đối với nhiều vị triết gia Phật học, thế giới và trải nghiệm của chúng ta về nó là không thể tách rời (ít nhất là theo miêu tả và diễn giải). Không có thuộc tính thiết yếu, siêu việt thời gian, và mọi thứ phát sinh phụ thuộc lẫn nhau.

 

Tại sao Phật giáo Cơ học Lượng tử không hoạt động?

 

Vậy là vấn đề là liên kết Cơ học Lượng tử và quan điểm Phật giáo này là gì? Vấn đề không phải là ở khía cạnh Phật giáo. Phật giáo đã tồn tại gần 26 thế kỷ, và tự nó đã duy trì và phát triển hoàn hảo. Bạn có thể chọn tham gia với đạo Phật như một triết lý hoặc một thực hành nếu cảm thấy phù hợp với bạn. Nếu không, điều đó vẫn tốt. Nhưng chắc chắn Phật giáo không cần vật lý hỗ tương.

 

Thay vào đó, vấn đề là chỉ ra cách giải thích Copenhagen của Cơ học Lượng tử và tuyên bố, "Đây là những gì Vật lý học thuyết minh". Có một danh mục dài các cách diễn giải của Cơ học Lượng tử: giải thích nhiều về thế giới, trong vật lý lý thuyết, các thí điểm lý thuyết sóng, lý thuyết thiết lập mục tiêu, quan hệ cơ học lượng tử và quy tắc Bayes lượng tử (my current favorite). Một trong những số này sẽ không phát hiện bất kỳ điểm tương đồng nào với triết học Phật giáo. Dựa trên thực tế, những người đồng thuận bởi cách cách giải thích khác này sẽ có lý do chính đáng để đối đầu với những tuyên bố của Phật giáo về mối quan hệ giữa tri thức và thế giới. Quan trọng nhất, cho đến khi một phương pháp thử nghiệm để phân biệt giữa các cách diễn giải, thực sự không ai biết cách giải thích thế nào cho chính xác.

 

Vì vậy, sai lầm cơ bản của Phật giáo Lượng tử là thành kiến. Những người đồng thuận nó ưu tiên một cách diễn giải Cơ học Lượng tử hơn tất cả những cách khác bởi họ yêu thích. Bởi họ yêu mến thích Phật giáo. Bản thân tôi cũng kính quý đạo Phật (tôi đã trong im lặng và nhìn vào bức tường với thời gian ba thập kỷ), nhưng điều này không có nghĩa là tôi cho rằng "hiển thị" Cơ học Lượng tử là sự thật.

 

Đối thoại giữa Phật giáo và Vật lý học

 

Liệu rằng có một mối quan hệ, một cuộc đối thoại giữa Phật và Vật lý học không? Điều này hoàn toàn có thể, và đây là dịp tôi nghĩ rằng có những lộ trình mới đang mở ra. Vật lý, cho dù chúng ta có biết về nó hay không, đã bão hòa với các ý tưởng, khái niệm và thể hiện sự kế thừa từ các truyền thống triết học bắt đầu từ người Hy Lạp.  Sau đó, những thứ này được trộn lẫn với các truyền thống của người (Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, Abraham) và kế đến được định hình bởi thời kỳ Phục hưng. Truyền thống triết học cổ đại trong vật lý này tạo thành một cuộc đối thoại liên tục về bản chất của nguyên nhân và kết quả. bản sắc và sự chuyển biến bởi thời gian và không gian. Khi các nhà vật lý học làm việc tại cơ sở thuộc các lãnh vực của họ đã cố gắng tưởng tượng ra những con đường mới và sẽ rút ra một cách tự nhiên từ truyền thống này rằng nó có thể là một cách có ý thức hoặc vô ý thức.

 

Những gì triết học cổ điển của Ấn Độ và châu Á (một thuật ngữ tốt hơn nhiều so với "Triết học phương Đông") đưa ra là một mối quan hệ đối tác mới đang được thảo luận. Các cuộc thảo luận về triết học trong thế giới Phật giáo đã xảy ra hàng thiên niên kỷ, đã đặt ra những câu hỏi tương tự như những câu thắc mắc xảy ra ở Địa Trung Hải, Trung Đông và Châu Âu. Nhưng cuộc đối thoại giữa những Phật tử có một loạt các mối quan tâm, và trọng điểm rất khác nhau. Bằng cách này, có lẽ sự tương tác giữa vật lý học và quan điểm Phật giáo có thể đưa ra một loạt ý tưởng, và quan điểm cần khảo sát khi tư duy về các vấn đề cơ bản trong vật lý học.


Barry Kerzin
Thượng Tọa Barry Kerzin tham gia nghiên cứu thiền định.



 

Thực sự, những đối thoại như thế này tôi rất hào hứng bởi lẽ không phải là vấn đề đưa cả hai lại gần nhau để "chứng minh một điều là đúng", mà thay vào đó, đây là việc mở rộng các khả năng khi tư duy về thế giới mà trong đó có vị trí của chúng ta. Vào các ngày 16-18 tháng 4 năm 2021, tôi sẽ tham gia một hội thảo khoa học ở Berkeler, tiểu bang California, Hoa Kỳ với chủ đề "Buddhism, Physics, and Philosophy Redux" (Triết học Phật giáo, Vật lý học và Redux). Được tổ chức bởi Cư sĩ Robert Sharf, giáo sư nghiên cứu Phật giáo thuộc khoa Văn hóa và Ngôn ngữ Đông phương thuộc trường đại học Berkeley, Hoa Kỳ, đây sẽ hứa hẹn một Niềm vui lớn!

 

Hội thảo khoa học ở Berkeler, tiểu bang California, Hoa Kỳ với chủ đề "Triết học Phật giáo, Vật lý học và Redux" (Buddhism, Physics, and Philosophy Redux), được diễn ra các ngày 16-18 tháng 4 năm 2021 tại, Hoa Kỳ:

 

Vào đầu thế kỷ 20, khi xuất hiện các vấn đề triết học cùng với sự ra đời của Cơ học Lượng tử vẫn còn rất nhiều với chúng ta. Như các Vấn đề đo lường, sự vướng mắc và tính bất định vị, Lưỡng tính sóng–hạt, v.v., buộc chúng ta phải đặt câu hỏi: các công việc của QM có đề cập đến một thế giới thực, độc lập với tâm trí hay chỉ là một phương tiện dự đoán những gì xuất hiện khi chúng ta đi tìm? Các khái niệm như "Hàm sóng", "Hạt giống", "Môi trường", "Thời gian", v.v., đều có quy chiếu những thứ tồn tại trong và của bản thân chúng, hay chúng chỉ là những cấu trúc trên danh nghĩa hoặc thực dụng? Trong thế kỷ qua, nhiều người đã viết về những câu hỏi này, nhưng vẫn chưa có gì giống như sự đồng thuận về các vấn đề.

 

Thật kỳ lạ, từ nhiều thế kỷ trước, câu hỏi triết học tương tự đã được xuất hiện trong tư tưởng Phật học, khi các nhà triết học Phật giáo đấu tranh để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cách thế giới quan xuất hiện như thế nào, cũng như thực trạng của các lý thuyết của chúng ta về thực tại khi phân tích. Ví dụ, các triết lý đạo Phật về “thuyết duyên khởi” (pratītyasamutpāda, (tiếng Phạn: प्रतीत्यसमुत्पाद; tiếng Nam Phạn: पटिच्चसमुप्पाद) và "cấu tạo sai biệt" (vikalpa) nêu lên các vấn đề có cấu trúc tương tự với các vấn đề đặt ra bởi Vấn đề đo lường và sóng Lưỡng tính sóng hạt, cách tiếp cận Con đường Trung đạo của Phật giáo song song đối với các vấn đề, ở nhiều khía cạnh, sự cạnh tranh các các công việc của QM.


Những nổ lực đầu tiên vào những thập niên 1970 là để bắt đầu một cuộc đối thoại giữa Phật giáo và Vật lý lý thuyết, dù rằng thời điểm lúc bấy giờ đã bị chỉ trích rất nhiều. Vấn đề là một phần những người tham gia vào những cuộc đối thoại ban đầu, dù am hiểu về các công việc của QM nhưng thường thiếu sự đánh giá tinh tế về triết học Châu Á và Phật giáo.

 

Hội thảo Khoa học này đã quy tụ một nhóm nhỏ các nhà Vật lý học, triết gia và học giả Phật giáo để xem liệu việc khởi động lại cuộc đối thoại có khả thi và hiệu quả hay không.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Big Think)


***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/10/2014(Xem: 20863)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
20/10/2014(Xem: 33543)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
23/09/2014(Xem: 5996)
Đa số người nghe, trong kinh Phật nói "xem thân như huyễn hóa", cho là tâm trạng bi quan, yếm thế. Trái lại, nhà Phật thấy thân như huyễn hóa là sức mạnh để làm lợi ích chúng sanh. Như nói "Bồ-tát lấy thân như huyễn, độ chúng hữu tình như huyễn", bởi Bồ-tát thấy thân hình không thật, nên sẵn sàng lăn xả vào làm việc lợi ích chúng sanh, dù gặp khó khăn nguy hiểm cũng không ngán sợ, vì thân như huyễn, có mất cũng không gì quan trọng. Thấy chúng hữu tình như huyễn, nên độ chúng sanh mà không chấp nhân, ngã. Thấy thân như huyễn, khiến người ta mạnh mẽ lên, không còn hãi sợ, trước vạn vật biến thiên mà tâm hồn mình vẫn an nhiên tự tại... Ta hãy nghe bài kệ của Thiền sư Vạn Hạnh:
18/08/2014(Xem: 59133)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 19337)
Tuy là những tích xưa, chuyện cổ, nhưng đối với người có óc quan sát sẽ rất là bổ ích, vì trong ấy chứa đựng những tư tưởng cao xa thâm thúy về triết lý đạo đức. Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn. Sau khi xem những chuyện tích được sưu tập trong phần này, hy vọng độc giả sẽ có thể dễ dàng thấy được những ý nghĩa đạo lý đã có tự ngàn xưa, được ghi lại qua những câu chuyện rất thú vị, làm cho chúng ta vui thích.
15/08/2014(Xem: 13035)
Tánh biết tham lam vật chất ,ích kỷ,vị tha,nhân quả,,ăn năn ,sám hối, thương yêu, ghét bỏ, sợ hãi, buồn tênh, v.v… của muôn loài hữu tình chúng sinh nói chung, con người nói riêng được hiển lộ ra ngoài thân ở lời nói và hành động trong đời sống hằng ngày.Tánh biết này,được các nhà ngôn ngữ cổ đại Trung Quốc gọi là Tâm.Từ đó cho đến nay người Trung Quốc và Việt Nam đều nói là tâm, một khi đề cập đến sự biết của các loài hữu tình chúng sinh,và con người.
02/08/2014(Xem: 8074)
Vào thời xa xưa các luận sư Phật học quan niệm rằng không gian (hư không) là một pháp vô vi. Quan điểm này còn lưu lại trong tác phẩm ĐẠI THỪA BÁCH PHÁP MINH MÔN LUẬN (Mahāyāna-śatadharmavidyā-dvāra-śāstra) do thầy Thế Thân (Vasubandhu) ở vào thế kỷ thứ IV (~316-396) biên soạn. Nhưng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh thì Không gian không phải là một pháp vô vi bởi vì nó còn bị chi phối bởi thời gian, vật thể và tâm
10/06/2014(Xem: 6168)
(Tờ nguyệt san GEO là một tờ báo lâu đời của Pháp có chủ trương và nội dung rất gần với tờ nguyệt san nổi tiếng National Geographic của Hoa Kỳ; số báo 342, phát hành tháng 8 năm 2007, là một số đặc biệt dành cho Phật giáo với chủ đề “Đà phát triển mới của Phật giáo, trong số báo này có một bài phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ký giả ghi chép: Andreas Hilmer. Hoang Phong lược dịch và ghi chú)
18/03/2014(Xem: 14998)
Phật dạy bậc đại nhân có tám điều giác ngộ. Điều thứ nhất, giác ngộ cuộc đời là vô thường, vũ trụ mênh mông tạm bợ. Gốc của bốn đại vốn không thật, trống rỗng nhưng nếu chúng ta không biết, chấp nó là thật thì sẽ dẫn đến đau khổ. Tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thật và không có chủ thể. Tâm này là cội nguồn phát sinh điều ác, thân này là nơi tích tụ tội lỗi. Người hay quán chiếu được như thế dần dần sẽ thoát khỏi sanh tử.
18/03/2014(Xem: 9926)
Luận Đại thừa Khởi tín của ngài Mã Minh nói: “Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp. Pháp giới Một tướng này tức là Pháp thân bình đẳng của chư Như Lai. Pháp thân này tất cả chúng sanh vốn có, nên gọi là Bản giác”. Luận nói tiếp: “Thế nên chúng sanh nào quán sát vô niệm thì chúng sanh đó đã hướng về Trí Phật”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]