Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiền Như Bụt (Từ tri thức tới trí tuệ là chặng đường luyện Tâm Bụt, sách PDF)

08/11/202104:25(Xem: 11899)
Hiền Như Bụt (Từ tri thức tới trí tuệ là chặng đường luyện Tâm Bụt, sách PDF)
          Hien Nhu But_Ha Long But Si


Hiền Như Bụt
 
Từ tri thức tới trí tuệ là chặng đường luyện Tâm Bụt.
Knowledge transcending to Wisdom is the fruit of Zen.
Tĩnh lặng là bước đầu của tu tập.
Silence is the first step of Buddhist learning.
 
BUDDHIST PSYCHOTHERAPY
BUDDHISM & PHYSICS
VIETNAMESE BUDDHIST TRADITION.
 
  
Hạ Long Bụt sĩ- Tịnh Khẩu Pháp Môn
Buddhist School of Silence.

 

MỞ SÁCH

 

Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả.

 

Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao.

 

Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá,

Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên.

 

Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát.

 

Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác.

Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.

 

Mỗi trang chỉ là một chiếc lá, từ vạn năm, mỗi mùa lại lả tả rơi xuống sân chùa.

 

Kẻ sĩ theo Tagathata

Nguyện lấy chổi đào

quét lá sân si

quét mây mù chướng ngại  

thổi tiêu dẫn bướm về đậu dưới gót Như Lai.

 

Om mani Om mani

 

                                      

  

B CC

Tổng quát :

Hiền Như Bụt- Mẫu Người Hiền-Đạo Bụt Sáng Nghĩa 21 đề tài-

Phật pháp Trị liệu pháp

Trị liệu pháp-Thiền Định Thiền quán-Tâm Bệnh-Khẩu nghiệp-Tịnh Khẩu pháp môn. Tri Thiên mệnh-Vô Cư An Cư.

Đạo Bụt và Khoa học Vật Lý

Vạn pháp Dung thông trường-Vật lý Lượng tử

Bóng Phật trong Văn học

Liêu Trai-Cổ thi Trung Đông/Ba Tư- Thơ Thiền Nhật Bản

Kiều-Phạm Thái-Cung Oán-Dép Đạt Ma- Đi Chùa Hương…

Tư tưởng Tam giáo

Cốt tủy Luân lý Bình dân-Ca dao Tục ngữ-

Vạn Hạnh-Trạng Trình-Lý Đông A-

Đạo Bụt canh tân

Bài học vua Phật Mongkut Thái Lan- Phật giáo Canh Tân

Chuỗi Ngọc Kinh Phật

Pháp Cú-Viên Giác-Kim Cương-Trường A Hàm-Pháp Hoa

Hoa nghiêm- Sách về đời Bụt : Sherab Chodzin Koln.

                          

HIỀN NHƯ BT

                              

 

            Từ điển chuyên khoa Triết học Larousse tìm nghĩa gốc của tên hiệu Thích Ca Mâu Ni là “cây sậy đơn độc”(1), nhiều học giả khác cũng đi tới kết luận tương tự, Thích Ca Mâu Ni hiểu theo nghĩa sâu xa là nhà hiền triết tịnh mặc.

 

            Từ giai đoạn sống đời sống nhân sinh mang tên Thái tử Mãn Nguyện- Siddhartha tới lúc sinh con trai tên Ràng buộc- Rahula, rồi dứt bỏ lên đường tìm đạo tu hành, ngồi tĩnh tọa im lặng dưới rặng Hy Mã Lạp Sơn nóc nhà của thế giới, người đương thời và đệ tử gọi Ngài là nhà hiền triết trầm mặc, Cakya Mouni, ít nói, không tranh biện, cho tới lúc đạt đạo giác ngộ dưới gốc Bồ Đề thành người Thức Tỉnh -Buddha. Từ đây cây sậy im lặng và thức tỉnh ấy đã làm thức tỉnh cả tỷ tỷ chúng sinh.

Buddha người Việt Giao Chỉ gọi nôm na là ông Bụt, mãi sau theo Tàu, thời Minh thuộc 1407-1428, mới gọi là Phật vì Tàu phiên âm Buddha là Phật Đà (2). Khi gặp hoạn nạn đau khổ thì người ta cầu ông Bụt hiện lên để cứu độ. Đạo Phật, từ những thế kỷ đầu Dương lịch, đã trở thành một triết lý và một tôn giáo dân tộc, ngay cả tên vị giáo chủ cũng đã được biến thành một tên bình dân, ông Bụt bên cạnh ông Tiên, đi vào đời sống tâm linh người dân như những thiên thần che chở cứu giải. Trời, Phật đi với nhau : nói có Trời có Phật, và ông Trời hay Tạo Hóa, hay Thượng Đế, thì cao xa quá, còn ông Bụt gần hơn, thân mật và hiền từ hơn, hiền như Bụt, như người dân ví dụ, chứng tỏ đạo lý từ bi đã thấm nhuần vào con người Việt-Nam rất tự nhiên và sâu xa. Đã bao người, như Lão Tử, trách móc Trời gần Trời xa, nào “thánh nhân đãi vạn như sô cẩu”, nào “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” v.v... nhưng chưa thấy ai oán trách ông Bụt hiền từ vì ông Bụt thương cả vạn vật cỏ cây và chỉ dạy cho con người cách diệt khổ để đạt tới Cực Lạc, Niết Bàn.

 

Ông Bụt chỉ dạy phương pháp khoa học để phá màn vô minh: hãy tự thấy cuộc nhân sinh hệ lụy theo kinh nghiệm của mình, tìm nguyên nhân của khổ đau sinh tử một cách khách quan, rồi suy xét thẩm định phương cách diệt khổ bằng đại hùng (dứt bỏ dục vọng), đại lực (tự lực mình tu tập), không khác phương pháp hiện đại của y giới Hoa-Kỳ, ông Bụt từ 2500 năm trước đã S.O.A.P. (Subjective, Objective, Assessment, Plan) đúng cách chẩn bệnh, định bệnh và chữa bệnh.

Ông Bụt từng dạy suốt 49 năm giảng dạy cách diệt khổ mà thật ra chưa từng nói một lời nào và ngón tay chỉ mặt trăng nhưng ngón tay không phải là mặt trăng. Đức khiêm tốn này suốt hơn 2000 năm đã giúp đạo Phật tránh được những cọ sát ý thức hệ, vượt trên hữu và vô:

 

Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không

Kìa xem bóng nguyệt lòng sông

Ai hay không có, có không là gì!  (3)

 

Về phương diện triết lý, Niết Bàn chính là tầng trời tâm linh cao cả và con người vốn mang Phật tính, nếu tu luyện đúng cách, đều có thể tự lực (đại lực) đạt tới như ông Bụt đã thể nghiệm. Tới đây Phật triết được nhân loại tin tưởng thành Phật giáo, một tôn giáo không cần tới huyền thoại, không cần tới thần quyền, vì như Nho giáo tâm niệm, con người vốn mang thần tính:

 
***

DaoVanBinhKính mời xem bài điểm sách này của Lão Cư Sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình:

Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ
            Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
(xem tiếp)



***
facebook
youtube
 

                                             

                        

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2011(Xem: 5762)
François Jullien, giáo sư trường Đại học Denis Diderot Paris VII, giám đốc Viện tư tưởng hiện đại và Viện Marcel Granet của trường này, là một nhà triết học nổi bật hiện nay ở Pháp, và cả ở phương Tây nói chung. Các tác phẩm của ông rất phong phú, chứng tỏ một sức sáng tạo rất dồi dào, và cũng thật độc đáo. Trong nhiều năm qua, ông chăm chú nghiên cứu về minh triết phương Đông, hoặc nói cho thật đúng hơn, ông làm một cuộc đối chiếu, ngày càng sâu sắc, tinh vi, triệt để giữa minh triết phương Đông với triết học phương Tây, - không chỉ để cố gắng thấu hiểu đến thực chất của nền minh triết ấy
02/04/2011(Xem: 5445)
Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lý trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xã hội mà không dựa vào Thần Linh.
29/03/2011(Xem: 8581)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta? Đức Đạt Lai Lạt Ma cống hiến giải pháp của ngài. Với nhiều tín đồ, chấp nhận tính chính đáng của những truyền thống tín ngưỡng khác đặt ra một thử thách nghiêm trọng. Để chấp nhận những tôn giáo khác là chính đáng có thể dường như làm tổn hại tính nguyên vẹn niềm tin tôn giáo của chính mình, vì nó đòi hỏi sự thu nạp những con đường tâm linh khác nhau nhưng hiệu quả.
20/03/2011(Xem: 4063)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 7236)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 3783)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4087)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 4459)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4269)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3143)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567