Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bộ sách Phật Học ứng dụng

23/06/201108:11(Xem: 15269)
Bộ sách Phật Học ứng dụng


BỘ SÁCH PHẬT HỌC ỨNG DỤNG
Hồng Quang sưu tầm và biên soạn
Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011


GIỚI THIỆU BỘ SÁCH "PHẬT HỌC ỨNG DỤNG" Nguyên Định

MỤC LỤC TỔNG QUÁT
Cuốn 1: Nghi lễ, Thiền và Tịnh độ
Cuốn 2: Giáo lý căn bản
Cuốn 3: Bước đầu học đạo
Cuốn 4: Bảy tôn giáo ngoài Phật giáo
Cuốn 5: Áp dụng lời Phật dạy vào cuộc sống
Cuốn 6: Dưỡng sinh
Cuốn 7: Khoa học và Phật giáo
Cuốn 8: Những vấn đề kiếp sau
Cuốn 9: Đạo Phật trong vùng ruộng lúa
Cuốn 10: Nghệ thuật diễn giảng và tầm quan trọng của văn nghệ.

bosachphathocungdung

TỔNGQUAN

Bộsách nhỏ, PhậtHọc ỨngDụng, ra đời nhằm góp phần vào việc hoằng pháptrong thời đại mới, thời đại mà hầu như tất cả việc làm và ý nghĩ đều hướng vàothực dụng.

Phậtpháp vốn không xa với thực tế và với cuộc sống của con người. Thực vậy, đứcPhật thị hiện cũng vì con người, vì lợi ích cho chúng sanh. Nhưng đôi lúc ngườidiễn dịch chú trọng nhiều đến giải thoát, giác ngộ mà quên phần nào sự thiếtthực cho cuộc sống của nhân sinh.

Sáchgồm10 cuốn nhỏ khoảng 150 trang chomỗi cuốn.

Cuốn1: Nghi lễ thông dụng và cách thức tu Tịnh độvà Thiền. Thiền và Tịnh là hai phương pháp tu trì thường được các Phậttử Á châu áp dụng, nhất là phương pháp Tịnh độ. Thiền và Tịnh không những đưacon người đến giải thoát và giác ngộ mà còn giúp cuộc sống được lành mạnh, thânthể cường tráng, ít bệnh tật.

Cuốn2:Giáo lý căn bản. Sẽgiớithiệu đến độc giả sơ lược tiểu sử Phật Thích Ca và một số lời dạy căn bản củaNgài. Hiện nay, tại Việt Nam, vẫn còn nhiều người nhận mình là Phật tử, nhưngkhông hiểu gì hoặc hiểu quá đơn sơ về Phật giáo nên lúc gặp một tín ngưỡng kháchọ dễ bị cải đạo; bỏ chánh theo tà, hại mình và hại cho cả xã hội nhân quần.Rất đáng tiếc.

Cuốn3:Bước đầu học đạo. Trình bàykhái quát năm giới căn bản mà một Phậttử sơ cơ cần có, cũng như tìm xem các trí thức trên thế giới đánh giá Phật giáonhư thế nào.

Cuốn4: Bảytôn giáo ngoài Phật giáo. Người Phật tử cần phảibiết, ít nhất là cơ bản, về vài tôn giáo chính hiện nay tại Việt Nam. Trước hếtđể học hỏi và thứ đến là nhận diện được giá trị của các tôn giáo nầy. NgườiPhật tử trong thời đại mới không thể nói “Đạonào cũng tốt, đạo nào cũng dạy con người ăn hiền ở lành”. Nhận định nầymang nhiều thiếu sót; vì có không ít “sản phẫm” mà các quốc gia tân tiến Tây phươngđã phế thải lại được nhập cảng vào Việt Nam với mục đích kinh tế và chính trị dướihình tướng tôn giáo.

Cuốn5: Áp dụng lời Phật dạy vào cuộc sống. Người học Phậtmà không thể áp dụng được lời dạy của Ngài vào cuộc đời thì việc học ấy khôngnhững trở thành vô ích mà còn tai hại nữa. Vì có học mà không hành con người dễtrở nên kiêu ngạo, đi đâu cũng khoe chữ, khoe bằng cấp, khoe sự hiểu biết, cáingã (ego) hơi lớn tạo nên tình trạng thiếu cân bằng giữa tâm và thân. Thế giớiđang đối diện với vô số vấn đề từ khủng hoảng mội trường, đến bạo động, chiếntranh rồi tâm bệnh, thân bệnh mà nhiều loại bệnh vẫn còn vô phương cứu chữa nhưbệnh HIV. Giáo pháp của Phật là một đáp án cho các vấn đề trọng đại vừa kể.

Cuốn 6:Dưỡng sinh. Mộttrong những nguyên nhân chính làm cho con người bị bệnh là do chế độ ăn uống vàthiếu hoạt động. Những thức ăn có nhiều mỡ, nhiều đường, muối, thịt cá nhưngthiếu rau quả làm cho con người dễ bị bệnh tim, cao huyết áp, máu có nhiều mỡ(cholesterol) và tiểu đường v.v.. Cuốn nầy cũng đề nghị một chế độ ăn uống nhẹnhàng theo tinh thầnPhật giáo, ít tốn kém nhưng đầy đủ chất bổ và tránh được nhiều bệnh hiểm nghèo.

Cuốn7:Phật Giáo và Khoa học. Nhưchúng ta đã biết khoa học tiến thì tôn giáo lùi, hoặc có thể nói khoa học đangđào mồ chôn tôn giáo. Nhưng tôn giáo nói đây là độc thần giáo mà Phật giáo làmột biệt lệ. Vì thế, nhà vật lý vĩ đại của nhân loại trong thế kỹ 20 đã từngphát biểu “Phật giáo không những là khoahọc mà còn vượt lên trên khoa học nữa”. Những bài chọn lọc trong cuốn nầy,độc giả sẽ ngạc nhiên và thích thú rằng những khám phá của khoa học ngày naychỉ soi rọi thêm những điều mà Đấng Giác Ngộ đã tuyên thuyết hơn hai ngàn nămtrước.

Cuốn8: Những vấn đề kiếp sau. Con người từ đâu đến,đến để làm gì và chết rồi đi đâu? Phải chăng chết là hết, có luân hồi, có đầuthai không? Lúc hiểu được những vấn đề nầy con người không còn sợ hải lúc phảibỏ xác thân nầy. Và vì biết có nghiệp báo và chết không phải là hết nên con ngườicố gắng sống hoàn thiện hơn để, nếu chưa được thoát vòng sanh tử luân hồi, thìcũng sẽ có một kiếp sau tốt đẹp.

Cuốn 9: Đạo Phật trong vùng ruộnglúa. Trình bày cách trồng và chăn bón một số cây ăn quảvà hoa thiết dụng để canh tác thêm nhằm cải tiến kinh tế gia đình. Sách cũngcho thấy một số hoa quả có những chất bổ dưỡng và dược tố cần thiết cho cơ thể,để góp phần vào việc cải tiến sức khỏe, giúp trẻ em thiếu dinh dưỡng, chống lạibệnh tật và lão hóa.

Cuốn10: Nghệ thuậtdiễn giảngvà tầm quan trọng của văn nghệ.Đây là một vấn đề không thể thiếu của các giảng sư, giảng viên, giámđốc cơ sở xí nghiệp, huynh trưởng Gia Đình Phât tử và các nhà lãnh đạo.Sách cũngcho thấy ÂM NHẠC đóng mộtvai trò hết sức quan trọng trong đời sống con người.Mộtđời sống thiếu ý nghĩa nếu con người không biết hát hoặc không biết nghe hát.Văn nghệ còn là một trong những môn thư giản bổ ích và cần thiết cho con người,nhất là sau những lúc làm việc mệt nhọc.

Cóthể nói, những ai đọc qua bộ sách nhỏ nầy sẽ cảm thấy thích thú và bổ ích chocuộc sống, và đặc biệt là những Phật tử có vai trò hướng dẫn người khác đến vớichánh đạo như quý vị giảng sư, quý vị trong Ban Tri sự các chùa làng, quý HuynhTrưởng Gia Đình Phật Tử...

Nhântiện đây, chúng tôi thành kính tri ân những tác giả và dịch giả đã đóng góp bàicho bộ sách nhỏ nầy. Một số vị gởi bài trực tiếp, nhưng phần còn lại chúng tôitrích dẫn từ các trang nhà (websites) và có ghi rõ xuất xứ, nhưng thiếu phươngtiện và thời gian để xin phép trực tiếp đến các trang chủ và tác giả, rất mongquý vị hoan hỹ.

Quốcgia ngày càng phát triển, nhưng không phải ai cũng có internet hoặc biết xửdụng internet để đọc bài. Và cũng vì lợi ích cho số đông, do đó, một lần nữakính mong các tác giả hoan hỹ, và hiểu cho rằng chúng tôi biên soạn bộ sách nhỏnầy là để góp phần vào việc hoằng hóa độ sanh chứ không phải mục đích thương mãi.

Kínhtri ân,

Ban biên tập, Xuân, 2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2011(Xem: 5758)
François Jullien, giáo sư trường Đại học Denis Diderot Paris VII, giám đốc Viện tư tưởng hiện đại và Viện Marcel Granet của trường này, là một nhà triết học nổi bật hiện nay ở Pháp, và cả ở phương Tây nói chung. Các tác phẩm của ông rất phong phú, chứng tỏ một sức sáng tạo rất dồi dào, và cũng thật độc đáo. Trong nhiều năm qua, ông chăm chú nghiên cứu về minh triết phương Đông, hoặc nói cho thật đúng hơn, ông làm một cuộc đối chiếu, ngày càng sâu sắc, tinh vi, triệt để giữa minh triết phương Đông với triết học phương Tây, - không chỉ để cố gắng thấu hiểu đến thực chất của nền minh triết ấy
02/04/2011(Xem: 5439)
Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lý trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xã hội mà không dựa vào Thần Linh.
29/03/2011(Xem: 8579)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta? Đức Đạt Lai Lạt Ma cống hiến giải pháp của ngài. Với nhiều tín đồ, chấp nhận tính chính đáng của những truyền thống tín ngưỡng khác đặt ra một thử thách nghiêm trọng. Để chấp nhận những tôn giáo khác là chính đáng có thể dường như làm tổn hại tính nguyên vẹn niềm tin tôn giáo của chính mình, vì nó đòi hỏi sự thu nạp những con đường tâm linh khác nhau nhưng hiệu quả.
20/03/2011(Xem: 4060)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 7232)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 3779)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4083)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 4457)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4264)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3139)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567