Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn

08/01/201918:12(Xem: 6676)
Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn
Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn

Tu Tuong Duy Ma Cat_HT Thich Thai Hoa
bia-tutuongduymacat
Ngỏ

 Tư tưởng Duy-ma-cật từ một góc nhìn_HT_Thích Thái Hòa

      Bố thí là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào có khả năng thí xả, có thể sinh vào cõi ấy. Trì giới là Tịnh độ của Bồ tát.  Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh tu hành mãn nguyện mười thiện nghiệp sẽ sinh về cõi ấy. Nhẫn nhục là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật chúng sinh nào trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt sẽ sinh về cõi ấy. Tinh tấn là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào cần mẫn, thực hành mọi công đức sẽ sinh về cõi ấy. Thiền định là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào nhiếp tâm không tán loạn sẽ sinh về cõi ấy. Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh có chánh định sẽ sinh về cõi ấy.

     Bốn vô lượng tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào thành tựu từ, bi, hỷ, xả, sẽ sinh về cõi ấy...”.

     Bấy giờ Hòa thượng dạy: “Đại thừa hay Tiểu thừa, Thiền tông hay Tịnh độ không nằm ở nơi chiếc áo, trú xứ chùa tháp, Tông phái, hệ phái hay chữ nghĩa, mà nằm ngay ở nơi tâm của chúng ta. Nếu chúng ta có trực tâm, có thâm tâm, có Bồ đề tâm, nguyện sống và hành hoạt theo tâm ấy là chúng ta có ngay Tịnh độ của chư Phật. Nếu chúng ta không có tâm ấy, thì ngay ở nơi cõi người, chúng ta đã đi bị hỏng đất, nói gì đến Đại thừa, Tiểu thừa, Nguyên thủy, Hệ phái, Tông phái, Tịnh độ hay Thiền tông!”.

       “Muốn xây dựng tịnh độ thì phải có tâm tịnh, không có tâm tịnh thì nỗ lực xây dựng tịnh độ đến mấy cũng không thành. Muốn xây dựng tịnh độ thì phải tịnh hóa tự tâm bằng trực tâm, thâm tâm, bồ đề tâm qua hạnh và nguyện. Không phát nguyện, không lập hạnh, thì tịnh độ chỉ là tịnh độ tự tâm mà tịnh độ không bao giờ trở thành hiện thực”.

        Hơn bốn mươi năm qua, lời dạy của Người mãi còn vang vọng trong tâm tôi, chỉ đường cho tôi đi, mở mắt cho tôi thấy, trao cho tôi phương pháp hành đạo, đưa tôi vượt qua bao thác ghềnh, giông bão.

        Nay, hội đủ duyên lành, tôi viết cuốn Tư tưởng Duy Ma Cật Từ một góc nhìn, để kính tạ ơn thâm của Người và của những bậc cao đức, những bậc Giáo thọ ân sư, và hồi hướng công đức cho cha mẹ, thiện hữu tri thức, ác hữu tri thức, cùng hết thảy muôn loài. Nguyện xin tất cả đều hội nhập pháp tính chân thật và đồng vào biển cả trí tuệ của Phật.

        Với tác phẩm này, ai có duyên thì đọc, không có duyên thì thôi, chẳng có chi nhọc lòng!

Tàng Kinh Các-Huế, mùa nhập thất 2018
Thích Thái Hòa
  pdf-icon
Ý kiến bạn đọc
15/01/201903:19
Khách
Nam mô a di đà phật . quan niệm của con về từ , bi , hỹ ,xã trong việc hành và hạnh ở cuộc sống như phần xẽ nêu dưới đây như sau mong chư thầy xem xét và đánh giá giúp con
Về Hành ( thực hành ) hỹ và xã trong cuộc sống bình thường , ai cũng vậy khi thực tâm XÃ( cho mà không nghĩ về việc mình xẽ nhận lại bất cứ điều gì ) giúp đỡ được một người vượt qua khó khăn mình xẽ cảm thấy hạnh phúc đó là HỸ
Nhưng vì sao phải hành cái hạnh hỹ xã ấy
Vd1: một người có thể HỸ XÃ giúp 10% tài sản mình có cho người khác nhưng khi gặp một trường hợp người cần giúp đỡ 20% 50% tài sản mình có thì họ lại cảm thấy phân vân khó khăn trong quyết định có XÃ hay không
Bất cứ một việc gì trong cuộc sống cũng vậy khi ta chưa từng làm điều ấy thì mình xẽ không biết , có thể thấy khó , hoặc không thể nhưng khi làm quen rồi thì ai cũng cảm thấy bình thường. Một đứa bé không biết dùng đũa để ăn thì đối với nó xẽ khó nhưng người sử dụng nhiều xẽ cảm thấy quen và bình thường
Quay lại từ đầu vd1 khi 1 người hành HỸ XÃ 10% tất cả những gì mình có thì khi duyên đến 1 trường hợp 11% 12% họ xẽ dễ dàng xã hơn 1 người chưa từng xã vì khoản cách bình thường của họ là từ 10%( bình thường ) đến 11% là ít hành càng nhiều thì họ xẽ xã được càng nhiều đến khi tu sĩ ấy hành đến 100% ( có thể xã tất cả những gì mình có thì tu sĩ ấy đã đạt được Hạnh HỸ Xã của bồ tát rồi đúng không ạ.
Con mong hồi âm của chư thầy ạ
Mail : [email protected]
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2016(Xem: 28816)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15652)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 9936)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7334)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5336)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13159)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12954)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17486)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35600)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
14/03/2016(Xem: 22391)
Đạo đức kinh được coi là do Lão Tử viết vào thế kỉ 4-6 Tr Tây lịch, thời Chiến Quốc bên Trung Hoa, cách đây khoảng 2400 năm. Theo người dịch, Đạo đức kinh của Lão Tử xuất hiện từ thời Chiến Quốc, một thời kỳ ly loạn, đến nay đã trải qua hơn 2000 năm e rằng nội dung đã bị nghiêm trọng biến dạng. Theo nhận xét của cá nhân tôi, Bản chữ Hán đang lưu hành hiện nay, nội dung của từng chương rất là khập khểnh, thiếu sự chặc chẻ không mạch lạc. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy được tinh thần của Đạo đức kinh là “vô vi”, “vô dục”, “vô tranh”và “hợp đạo” vì các từ này thường được lập đi lập lại trong suốt 81 chương kinh. Dựa trên tinh thần này, người dịch đã chọn ra 48 chương trong 81 chương để phỏng dịch và phóng tác. Tất nhiên đã là phỏng dịch thì không theo sát văn; phóng tác thì có sự tư duy sáng tạo của cá nhân. Chùa Hội Phước, Nha Trang 14/6/2012 Thích Chúc Thông
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]