Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Thành Thật

04/01/201909:09(Xem: 12306)
24. Thành Thật

Thành Thật

(giọng đọc Dương Yến Ngọc)

 

 

Thương nhau thì phải hiểu nhau. Muốn hiểu nhau thì phải tin tưởng nhau. Mà muốn tin tưởng nhau thì phải thật lòng với nhau.

 

 

 Thành thật với nhau

 

Con người ngày càng nghiêng về sự hưởng thụ, luôn đi tìm những cảm xúc tốt từ tiện nghi vật chất và sự ngưỡng mộ của những người xung quanh, nên chẳng còn mấy ai ý thức giữ gìn lòng thành thật. Mặc dù ai cũng biết rằng thành thật là một đức tính tốt và ai cũng trông mong người khác thành thật với mình, nhưng một khi bị cuốn vào vòng tranh chấp bất tận của cuộc sống thì người ta lại thấy lòng thành thật chính là trở ngại căn bản để vươn tới thành công. Nhiều người còn dám tuyên bố rằng, sống giữa xã hội bây giờ mà cố giữ lòng thành thật thì đó là thái độ sống rất ngây thơ. Theo họ, phải khôn khéo và đầy kỹ xảo trong từng hành động thì mới là kẻ thức thời và mới hy vọng thành công.

 

Thế rồi người ta đến với nhau bằng những màn trình diễn rất ngoạn mục, từ những lời nói trau chuốt bóng bẩy đến những hành động lịch lãm dễ thương. Chỉ cần thu phục được đối phương, dù phải nhồi nặn thêm những điều hoàn toàn trái ngược với sự thật thì ta cũng chẳng chút ngại ngần. Thật khôi hài khi khán giả trung thành nhất lại chính là người thân yêu nhất của ta. Một ngày nào đó, khi ta không còn đủ sức để diễn nữa, lớp phấn son kia sẽ tự rớt xuống thì niềm tin yêu của người ấy cũng sẽ rơi rụng theo. Dù ta cố gắng biện minh bằng tất cả lòng thành khẩn thì cũng rất khó để đưa tâm thức họ trở về vị trí cũ. Trừ phi đó là người có hiểu biết và tình thương lớn thì họ mới chấp nhận và tha thứ cho ta. Dù vậy, vết thương trong họ vẫn còn đó. Sau này, ta có muốn tuyên bố điều gì quan trọng thì họ cũng vẫn đề phòng và xét lại. Họ không dễ dàng trao trọn niềm tin cho ta như xưa nữa.


Đành rằng cuộc sống đôi khi cũng cần sự khôn khéo. Nhưng chút ít thôi. Ta chỉ nên dùng nó trong những trường hợp đối phương chưa sẵn sàng tiếp nhận sự thật, chứ không phải là thói quen để tạo thêm lớp phấn son giả tạo cho mình. Mà dù phải dùng tới chiêu thức kỹ xảo để giải quyết vấn đề cho trót lọt thì ta cũng phải có trách nhiệm tìm cơ hội khác để trình bày lại sự thật. Đừng đợi người kia phát hiện ra thì ta sẽ mang tội danh lừa dối. Một trong những lý do khiến ta có niềm tin vào cuộc sống, đó là mỗi lời ta thốt ra đều được người khác lắng nghe và tin tưởng. Và không gì thoải mái cho bằng được sống chung với những người mà ta không cần phải dò xét hay đối phó bằng bất cứ chiêu thức nào. Chỉ cần nhìn nhau là đã hiểu nhau rồi. Bởi lẽ, muốn thương nhau thì phải hiểu nhau. Muốn hiểu nhau thì phải tin tưởng nhau. Mà muốn tin tưởng nhau thì phải thật lòng với nhau.

 

Trong thực tế người thành thật rất dễ bị kẻ xấu lợi dụng hay lấn lướt. Nhưng vũ trụ vốn rất công bằng. Những người thành thật cũng chính là những kẻ luôn gặp những điều may mắn nhất trong cuộc đời, và họ không bao giờ đi tới bước đường cùng vì bị kẻ khác hãm hại cả. Cho nên, ta đừng vì vài thất bại nho nhỏ khi đem lòng thành thật ra đối xử mà lại cố gắng tạo dựng cho mình thói quen đề phòng hay thiếu thành thật với mọi người. Mất đi quyền lợi thì ta vẫn còn vạn cách để khôi phục, nhưng lỡ mất đi sự hồn nhiên chân thật thì ta sẽ không biết tìm lại bằng cách nào. Không có sự hồn nhiên linh thiêng ấy, ta sẽ có cái nhìn sai lệch lên mọi đối tượng và hoàn cảnh, rồi ta lại đổ thừa cuộc đời này chỉ là những vở tuồng mộng ảo. Rõ ràng, mộng ảo là do chính tâm thức điên đảo của con người dệt lên chứ đó không phải là bản chất của cuộc đời. Vì cuộc đời vốn rất tươi đẹp.

 

 

 

Thành thật với chính mình

 

Không có một nguyên tắc chuẩn xác nào để giúp ta biết khi nào phải thành thật, hay phải thành thật tới mức độ nào. Bởi vì quan niệm về giá trị hạnh phúc của mỗi người mỗi khác nhau. Nếu ta cho rằng hạnh phúc là có được thật nhiều tiền bạc hay quyền lực, thì chắc chắn ta không thể nào đem lòng thành thật ra như một loại bảo bối để ứng phó giữa những cuộc cạnh tranh khốc liệt của cuộc sống. Chỉ có kẻ nào thấy được hạnh phúc chân thật từ chính cõi lòng bình yên, từ việc buông bỏ bớt những mong cầu hay chống đối không cần thiết thì họ mới kiên quyết bảo vệ tâm hồn mình. Họ thà chấp nhận để cho việc hư chứ nhất định không để cho tâm mình hư. Bởi tâm hư khó sửa gấp trăm ngàn lần so với việc hư. Và nếu việc thành mà tâm hư thì ta cũng chẳng thể nào hạnh phúc được.

 

Thế nhưng, lắm lúc ta lại hoang mang đứng trước sự chọn lựa nên giữ gìn lòng thành thật hay tiếp tục bước vào vai diễn để có thêm quyền lợi. Bởi vì không phải lúc nào nội lực của ta cũng đủ mạnh để chế ngự những lực hấp dẫn bên ngoài kích động vào hạt giống tham lam của mình. Đó thật sự là một cuộc tranh đấu rất cam go. Kẻ nào có

 

ý  chí mạnh mẽ hướng tới giá trị cao cả của cuộc sống thì mới hy vọng bảo vệ được lý trí sáng suốt của mình. Nhưng thực tế cho thấy không phải lúc nào sử dụng ý chí cũng thành công. Ta không thể gắng gượng áp đặt chân lý tốt đẹp vào nhận thức của mình khi nó đang rơi xuống một vị trí quá thấp. Cho dù ta đã quyết lòng muốn sống với tâm chân thật, thì năng lượng của thói quen sống che đậy và giả dối vẫn có thể hạ gục ý chí của ta như thường.

 

Vậy muốn làm chủ bản thân thì ta phải hiểu được chính mình. Muốn hiểu được chính mình thì ta không được dùng ý chí để nhồi nặn tâm mình thành ra một sản phẩm tốt đẹp để rồi tự lừa dối mình. Ta tức giận mà không chịu nhận là mình đang tức giận. Ta ganh tỵ mà cố nghĩ là mình đang phấn đấu thi đua. Ta hèn yếu mà lại cho rằng mình đang nhịn nhục. Lý do ta không thấy được chính mình đó là do sự can thiệp quá vội vàng của ý chí. Bởi ý chí là năng lực hướng tới sự tốt đẹp, nó được làm ra từ những kinh nghiệm và kiến thức tích lũy. Trong khi thực tại lại là một cái gì đó rất khác với trình độ ý chí. Mà bản thân của ý chí cũng chỉ có thể kìm hãm sự phát triển của phiền não chứ không thể nào chuyển hóa được chúng. Cho nên, ý chí không những không giúp được ta trong trường hợp này mà còn khiến ta đánh giá sai lệch về trình độ của mình. Ta sẽ trở nên chủ quan và sẽ bất ngờ trước những phản ứng vụng về đến tệ lậu của mình mà không hiểu tại sao.

 

Vì thế, nhìn vào tâm thức của mình cũng cần có thái độ thành thật. Khi ta chưa biết cách tháo gỡ đúng đắn thì hãy quan sát nó như chính nó đang là. Đừng bắt ép nó phải thế này hay thế kia. Cái nhìn thành thật ấy thường được gọi là trực giác - nhìn như mới nhìn lần đầu tiên. Đó là cái nhìn chưa đi qua sự nhồi nặn của tâm tưởng, cái nhìn không mang theo thái độ bảo vệ cái tôi của mình. Loại trừ được thái độ yêu thích hay ghét bỏ trong khi quan sát tâm mình thì chắc chắn ta sẽ thấy rõ chân tướng của nó. Ta sẽ thấy rõ nguyên nhân sâu xa nào đã thúc đẩy và tạo nên những tâm lý mình đang có. Chỉ cần im lặng và thong thả quan sát như xem cuốn phim đang từ từ mở ra thì ta sẽ thấu hiểu được từng mảnh tâm lý từ thô lậu đến tinh tế. Điều này phải cần đến quá trình luyện tập kiên trì chứ không thể nào thành công mau chóng được. Tuy nhiên, khi ta bắt đầu thành thật với chính mình, chấp nhận những gì mình đang có rồi mới tìm cách tháo gỡ thay vì phủ nhận hay đàn áp, thì đó đã là bước tiến cực kỳ quan trọng của công trình chuyển hóa tâm tính rồi.

 

Trong quá khứ, ta cũng đã từng quyết tâm cải thiện mình. Nhưng trải qua nhiều năm tháng mà ta chẳng tiến được bước nào, đôi khi lại còn bị lui sụt. Nguyên nhân lớn nhất là do ta chỉ dùng toàn ý chí, không chấp nhận trình độ mình đang có. Thậm chí, ta còn khinh ghét bản thân mình, luôn mặc cảm khi nhìn thấy những năng lượng xấu xuất hiện trong tâm. Nên nhớ, đó là kết quả của lối sống thiếu tỉnh thức của chính ta. Ta không thể ra lệnh nó phải thay đổi ngay khi ta chưa thật sự tập luyện với công phu và thời gian đủ lâu, để tạo dựng cho mình một thói quen mới bền vững. Cho nên, điều kiện quan trọng nhất để chuyển hóa những thói hư tật xấu trong chính mình là ta cần phải thấu hiểu và chấp nhận chúng như một phần của con người mình. Mà muốn thấu hiểu chúng, cách hay nhất là ta phải nhẹ nhàng và thân thiện với chúng. Thậm chí phải xem chúng là bạn.

 

Những người được nhân danh là đạo đức hay tu hành lâu năm thường dễ mắc vào cái bẫy này. Họ đem hết sức bình sinh ra để cố gắng trở thành thánh thiện, trong khi khoảng cách giữa sự thánh thiện và trình độ hiện tại của họ còn khá xa. Đôi khi, chính lòng háo hức muốn trở thành thánh thiện đã che khuất tâm thức có thật của họ. Họ ngưỡng mộ rồi tiêm nhiễm sâu sắc những kinh nghiệm quý báu của những bậc tiền bối, vô tình họ lại ngỡ đó là trình độ của mình. Họ đang không thể tha thứ vì lòng dạ còn hẹp hòi và cố chấp, mà cứ phấn đấu dán vào tâm thức mình nhãn hiệu từ bi. Nên bề ngoài tuy đã tha thứ nhưng trong lòng họ vẫn còn đầy sân hận. Thái độ "tự kỷ ám thị" này là bức tường trở ngại rất lớn cho công trình khám phá chân lý. Muốn tới được chân lý thì phải sống thật với chân lý ấy chứ không thể dùng sự thông minh để nắm bắt, tưởng tượng, hay cố uốn nắn tâm mình.

 

Dĩ nhiên, không phải lúc nào ta cũng có cơ hội để quan sát tâm mình một cách thành thật. Ta còn phải ứng phó giao tế với mọi người, còn phải tranh đấu để có thêm tiện nghi hưởng thụ, nên có lúc ta phải dùng đến ý chí để tạm thời vượt qua hoặc che đậy phiền não của mình. Được cái này ta phải đành mất cái khác, đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Song, ta vẫn còn kịp cứu chữa tâm mình nếu sau buổi trình diễn bất đắc dĩ ấy ta biết nhìn lại và tự nhắc nhở mình sẽ cố gắng để không lặp lại lần nữa. Đến khi nào ta ý thức mạnh mẽ đâu là giá trị hạnh phúc chân thật, đâu là mục đích cao cả của cuộc sống, thì chắc chắn ta sẽ dành nhiều cơ hội hơn để sống với cái tâm chân thật của mình. Ta sẽ sẵn sàng từ khước những gì làm phương hại đến những hạt giống quý báu trong tâm hồn mình. Bởi ta biết rất rõ những gì được tạo dựng trên nền tảng không chân thật sẽ không thể tồn tại lâu bền. Và nó chính là chướng ngại lớn lao khiến ta không thể đến gần với nhau được.

 

Như vậy, nghệ thuật sống cao cấp nhất không phải là trình độ kỹ xảo uốn nắn tâm mình thành một kiểu mẫu tốt đẹp nào đó mà không có nền tảng của sự chuyển hóa thật sự. Từ bây giờ, ta hãy cố gắng luyện tập thuần thục kỹ năng thấy rõ tâm mình ở mọi lúc mọi nơi. Nhớ kiên trì quan sát nó nhiều lần bằng thái độ nhẹ nhàng và từ tốn mà đừng nhồi nặn hay đàn áp. Luyện tập được như thế thì cơ hội làm chủ được bản thân mình rất cao. Khi làm chủ được bản thân, ta sẽ có nhiều cơ hội để nắm giữ hạnh phúc trong tầm tay. Ta sẽ không còn than oán cuộc đời này sao có quá nhiều điều phiền toái hay mau chóng đổi thay. Sống được với cái tâm hồn nhiên chân thật là ta đã chính thức hòa điệu với sự vận hành của vũ trụ. Đó là lối sống của bậc trí thức, là ước mơ của biết bao người đã không tìm thấy giá trị hạnh phúc chân thật từ những tấn tuồng đầy kịch tính của cuộc đời.

 

Dù chưa tìm thấy được con người hồn nhiên chân thật, nhưng ta tin chắc rằng nó vẫn còn nguyên vẹn đó chứ không hề tan biến đi đâu. Vì có nhiều khi tâm hồn ta thật sự vắng lặng, không còn bóng dáng của những tham cầu và chống đối, thì ta bỗng nhìn thấy nó hiện về tựa chừng chưa bao giờ xa cách - "Có nhiều khi từ vườn khuya bước về, bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa" (Phôi pha - Trịnh Công Sơn).

 

 

Xin cảm ơn đất trời

Cho tôi được về tôi

Bao năm làm lữ khách

Thấm thía nỗi đau đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2010(Xem: 3894)
Tôi hành thiền Vipassanà không theo cách rập khuôn một bài bản cố định, có điều kiện của các thiền sư, thiền viện hay thiền phái nổi tiếng nào, dù biết rằng những phương pháp vận dụng quy mô ấy đều đem lại lợi lạc nhất định cho rất nhiều hành giả và bản thân tôi cũng đã học hỏi từ đó rất nhiều.
07/10/2010(Xem: 10343)
Tác phẩm “Triết học có và không của Phật giáo ở Ấn Độ” mà độc giả đang cầm trên tay là tác phẩm gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong thời gian tác giả còn đang du học tại Đài Loan (Taiwan), với nội dung chủ yếu phân tích giải thích tư tưởng có(bhŒva) và không(Sènyatˆ) là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt thuyết minh về mối quan hệ thiết thân giữa hai học thuyết này. ..
06/10/2010(Xem: 3929)
Bất biến tùy duyên. Trong Tinh Hoa Triết học Phật giáo (Essentials of Buddhist Philosophy), Tuệ Sỹ dịch, Junjiro Takakusu tóm lược bốn thuyết duyên khởi sắp hạng theo thứ tự từ thời Pháp Tạng từ Nghiệp cảm duyên khởi, đến A-lại-da duyên khởi, Chân như duyên khởi, và cuối cùng, Pháp giới duyên khởi.
29/09/2010(Xem: 5824)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
29/09/2010(Xem: 8732)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 6115)
Sinh trưởng tại miền Đông Tây-Tạng vào năm 1936, Trưởng Lão Đại Sư Garchen Rinpoche thuộc giòng Drikung Kagyu là hoá thân của một vị đại thành tựu giả tên Siddha Gar vào thế kỷ 13 -- đệ tử tâm truyền của ngài Kyobpa Jigten Sumgon, vị Tổ lừng danh của giòng phái Drikung Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng. Trong thời đại Cổ Ấn, Đại Sư Garchen Rinpoche chính là hoá thân của đại thành tựu giả Thánh Thiên (Aryadeva), vị đệ tử đản sanh từ bông sen của ngài Long Thọ Bồ Tát. Vào thế kỷ thứ 7, Đại Sư Garchen Rinopche là Lonpo Gar tức vị khâm sai đại thần của Pháp vương Songsten Gampo, vị vua lừng danh trong lịch sử Tây-Tạng
28/09/2010(Xem: 5237)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
27/09/2010(Xem: 4198)
“Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa hẹn với chúng ta. Chúng có thể đến bất cứ lúc nào mà không một lời báo trước. Bởi vì cuộc sống là vô thường, nên chúng ta không biết chắc rằng chúng ta có còn sống ở sát-na kế tiếp hay không. Nếu một tai nạn xảy đến, chúng ta sẽ biến mất khỏi thế giới này ngay tức khắc. Mạng sống của chúng ta ví như hạt sương đọng lại trên đầu ngọn cỏ trong buổi sáng mùa xuân. Nó sẽ bị tan biến ngay khi ánh mặt trời ló dạng. Những ý niệm của chúng ta thay đổi rất nhanh trong từng sát-na. Thời gian rất ngắn ngủi. Nó chỉ kéo dài trong một sát-na (kṣaṇa), giống như hơi thở. Nếu chúng ta thở vào mà không thở ra, chúng ta sẽ chết”. Đấy là bài học học đầu tiên mà tôi học được từ thầy của mình cách đây 39 năm, vào cái ngày đầu tiên sau khi tôi trở thành một chú tiểu.
23/09/2010(Xem: 5043)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định. Với lời tuyên thuyết của Bồ tát Long Thọ: “Các pháp do duyên khởi nên ta nói là Không” (Trung luận, XXIV.18), đa số học giả sử dụng Không và Duyên khởi như đồng nghĩa.
22/09/2010(Xem: 6133)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567