Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Hiến Tặng

03/01/201915:57(Xem: 11390)
12. Hiến Tặng

Hiến Tặng

(giọng đọc Thanh Thủy - Đức Thịnh)

 

Vì người cũng là vì mình và vì mình cũng là vì người, bởi không có ranh giới khác biệt giữa mình và người.

 

 

 

Cho và nhận

 

Khi tặng quà cho một người nào đó, ta hay nghĩ rằng mình là ân nhân của họ. Vì món quà ấy dù mang giá trị vật chất hay tinh thần cũng đều góp phần làm cho họ được an vui và hạnh phúc hơn. Nói chung, ta nghĩ họ đã nợ ta một cảm xúc tốt. Nhưng nếu ta thật lòng muốn tặng mà họ lại khước từ vì họ đã đầy đủ, hoặc vì họ không muốn mắc nợ ta, hay vì họ không còn có mặt ở đây để đón nhận, thì ý niệm hiến tặng sẽ không thể nào thực hiện được. Vậy nên, người cho cũng cần người nhận chứ không chỉ người nhận mới cần người cho. Và như thế, không chỉ người nhận phải cảm ơn người cho, mà người cho cũng phải cảm ơn người nhận. Bởi cả hai đều là điều kiện cần thiết cho nhau. Điều này nghe rất lạ, nhưng đó là sự thật rất hiển nhiên để tạo nên sự cân đối giữa các mối liên hệ trong vũ trụ.

 

Khi ta hiến tặng những món quà mà mình rất yêu quý, hoặc đã từng bỏ ra rất nhiều công sức để làm nên và món quà ấy thật sự có giá trị hữu dụng cho người kia, thì không những ta giúp họ được an vui và hạnh phúc hơn, mà chính ta cũng nhận được một nguồn năng lượng bù đắp từ vũ trụ. Dù ta chỉ một lòng muốn giúp đỡ chứ không có ý gì khác, nhưng năng lượng được phóng thích từ tâm ý cộng với trị giá món quà sẽ kết nối với những nguồn năng lượng có cùng tần số trong vũ trụ, để phản hồi lại ta một hiệu ứng tốt đẹp. Hiệu ứng ấy có thể xảy ra tức thì, nhưng cũng có khi đến nhiều thế hệ sau nó mới hội đủ điều kiện để hoàn tất. Và dù món quà hiến tặng không phải là thứ ta yêu quý, hoặc không phải do chính công sức của ta tạo ra, cũng không mang lợi ích thiết thực cho người kia, thì ta vẫn nhận được sự hồi đáp không nhỏ. Vì ta đã có thiện ý muốn giúp.

 

Một sự thật khác. Từ khi ta phát sinh ý niệm muốn hiến tặng, đến suốt tiến trình hiến tặng và mãi tận sau này, mà ta cũng không hề có thái độ phân biệt chọn lựa hay coi thường đối tượng, không có ý muốn họ phải đền đáp, và không bao giờ cảm thấy tự đắc vì mình đã làm được một việc tốt, thì ta sẽ nhận được toàn bộ năng lượng đền trả của vũ trụ. Phần hồi đáp ấy có khi được nhân lên gấp bội. Bởi đó là sự hiến tặng trong sạch, hoàn toàn vì đối tượng chứ không xen ké quyền lợi của mình vào. Còn nếu ta chỉ chọn lựa đối tượng mình ưa thích mới hiến tặng, hoặc luôn mong mỏi người kia ghi khắc công ơn mình dù chỉ cần đáp lại bằng thái độ kính trọng, hay ta luôn thấy mình cao thượng vì đã làm được một việc tốt, thì năng lượng đền trả của vũ trụ cũng xảy ra. Tuy nhiên, nó rất yếu ớt.

 

Trong trường hợp ta mượn đối tượng ấy để đánh bóng tên tuổi của mình, hoặc để ta thực hiện việc tích phước với mong muốn đời sống của mình sẽ được an toàn và hạnh phúc hơn, hay để ta tìm thấy giá trị của mình sau những thất bại thảm hại trong cuộc đời, thì ta chỉ nhận được chút ít năng lượng từ món quà quý giá đã gửi đi. Điều không ngờ là nếu nhờ vào hình thức hiến tặng đó mà ta thu về khá nhiều quyền lợi, thì tức là ta đã vay lại từ đối tượng kia một món nợ cảm xúc. Dù họ không hề hay biết, nhưng vũ trụ sẽ có bổn phận lấy lại của ta bằng cách này hay cách khác để trả lại cho họ. Như vậy, cho cũng chính là nhận, mà cũng có thể trở thành vay nợ. Tất cả đều tùy thuộc vào tâm ý của ta. Đó là lý do tại sao có rất nhiều người siêng năng làm công tác giúp đỡ, nhưng cuộc đời họ chưa bao giờ khởi sắc hơn cả. Thậm chí, càng giúp đỡ thì cuộc đời họ càng tăm tối hơn.

 

Thêm một sự thật kỳ diệu nữa. Khi ta hiến tặng bằng tất cả tấm lòng, trao đi một món quà thật sự quý giá đối với ta và mang tới giá trị hữu dụng cho người kia, thì không những vũ trụ sẽ đền trả mà chính năng lượng trong người nhận sẽ tự động bị hút về người cho theo "quy luật cân bằng cảm xúc". Mức cân bằng tùy thuộc vào quan niệm về trị giá món quà và ý nghĩa của sự hiến tặng giữa hai người. Nếu người nhận không còn đủ năng lượng dự trữ để hồi đáp thì vũ trụ vẫn chấp nhận cho nợ. Đến khi nào họ tích tụ thêm được năng lượng mới thì vũ trụ sẽ tiếp tục thu lại để gửi đến ta cho đến khi cân bằng. Điều kỳ diệu là lòng biết ơn, sự kính trọng hay tình thương chính là những nguồn năng lượng giá trị nhất để tạo thế cân bằng. Vì nó được sản sinh từ nền tảng vô ngã. Có được nó thì ta sẽ không còn lo sợ bị mắc nợ nữa. Ngược lại, thái độ vô ơn hay phản trắc sẽ khiến cho món nợ nhân lên gấp bội. Có khi đến nhiều thế hệ con cháu của ta mới trả xong món nợ ấy. Cho nên, nhận cũng chính là cho mà cũng có thể là vay thêm nợ. Ta nên khôn ngoan từ khước những món quà không thật sự cần thiết, nếu biết năng lượng của mình không đủ để đền trả lại. Nhất là đối với những món quà được tạo ra từ năng lượng của đại chúng.

 

Truyền thống Phật giáo đại thừa luôn nhắc đến nguyên tắc bố thí để trở thành sự bố thí tuyệt đối, đó là: "Tam luân không tịch". Nghĩa là ba đối tượng gồm người bố thí, người nhận bố thí và món quà bố thí phải nương tựa vào nhau thì mới thành lập được. Thứ nhất, người bố thí phải thấy cả vũ trụ trong họ cùng đang bố thí chứ không phải cái tôi biệt lập đang bố thí. Đặc biệt, nhờ có người đón nhận thì ta mới thực hiện được việc làm này, nên trước và sau khi bố thí trong tâm không hề có sự thay đổi. Thứ hai, người bố thí phải thấy món quà này cũng do sự góp mặt của vạn sự vạn vật mới làm ra được, nên không có thái độ lựa chọn giá trị cao thấp của món quà để bố thí. Thứ ba, người bố thí không có sự phân biệt hay đòi hỏi gì nơi người nhận, chỉ một lòng vì họ. Cả ba điều này nếu xảy ra đầy đủ thì ta sẽ đạt tới đỉnh cao của sự bố thí - bố thí không điều kiện hay sự bố thí trong sạch.

 

Nguyên tắc này có thể khiến ta không khỏi giật mình, vì dường như xưa nay ta chưa thật sự bố thí. Phần lớn chỉ là sự trao đổi cảm xúc qua lại: tôi cho anh cái này thì anh phải cho tôi lại cái kia. Nhưng không sao. Chỉ cần ta có ý niệm đúng đắn trở lại, cố gắng luyện tập thói quen quan sát tâm mình mỗi khi muốn bố thí và suốt tiến trình thực hiện để ngăn chặn những bám víu nhỏ nhoi. Trong nhất thời, nếu không thể buông bỏ được thái độ bám víu vào hành động bố thí của mình thì ít nhất ta cũng đừng đòi hỏi đối tượng hay lợi dụng đối tượng để trục lợi. Tất nhiên, nếu tâm ta vẫn còn phiền não tham cầu và chống đối thì sự hiến tặng sẽ không thể nào đạt tới mức hoàn hảo. Dù vậy, càng tiến về nguyên tắc ấy thì ta sẽ càng tiến gần tới chân lý, để người cho và kẻ nhận đều được lợi ích.

 

 

 

Phước và Đức

 

Truyền thống văn hóa Việt Nam luôn đề cao hai phẩm chất quý giá của con người, đó là: phước và đức. Phước là năng lượng được tạo ra từ hành động hướng tới kẻ khác để giúp đỡ; còn đức là năng lượng được tạo ra từ quá trình chuyển hóa năng lượng xấu và phát huy năng lượng tốt của bản thân. Thực chất, phước cũng chính là đứcđức cũng chính là phước. Trong khi hướng tới kẻ khác để giúp đỡ, ta không ngừng quan sát thái độ bám víu và đòi hỏi của mình để buông bỏ, đó là vừa có phước mà cũng vừa có đức. Còn trong khi quay về chăm sóc nội tâm, tháo gỡ những cố tật phiền não bảo vệ cái tôi, trở thành con người nhún nhường dễ thương, luôn tỏa chiếu năng lượng an lành và mát mẻ đến mọi người xung quanh, đó là vừa có đức mà cũng vừa có phước. Nếu chỉ có phước mà không có đức thì lòng tốt ấy chỉ là một sự đổi chác hay lợi dụng; còn nếu có đức mà không có phước thì đó chỉ là hành động trốn tránh, ích kỷ. Sự thật, phước đức chỉ là hai mặt của một thực thể. Thực thể ấy chính là vô ngã - bản chất của vạn sự vạn vật. Do đó, vì người cũng là vì mình và vì mình cũng là vì người, bởi không có ranh giới khác biệt giữa mình và người. Tùy theo hoàn cảnh mà ta cần phải chú trọng phần phước hay phần đức nhiều hơn, nhưng không bao giờ được quên tính chất liên đới và không thể tách rời của chúng.

 

Cho nên, trong khi quay về xây dựng đời sống nội tâm ta phải thực tập làm sao để chính ta và mọi người chung quanh đều được lợi ích, dù ta chưa có hành động giúp đỡ nào cụ thể. Và trong khi hướng tới giúp đỡ mọi người ta cũng cố gắng thực tập làm sao để những đối tượng ấy thật sự được lợi ích và chính ta cũng thấy an vui, nhẹ nhàng và thanh thản, dù ta chưa chính thức bước vào công trình chuyển hóa tâm tính. Tuy nhiên, trên thực tế thì thực tập phước thường dễ thất bại hơn thực tập đức, vì ta rất dễ bám víu vào hành động hiến tặng được cho là cao thượng của mình. Vì thế, quay về thay đổi chính mình trước khi muốn chia sẻ với người khác, tự lợi rồi mới lợi tha, là con đường hợp lý nhất. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng thuận lợi như ta sắp đặt. Phải thông minh và bản lĩnh lắm thì ta mới có thể sử dụng phước và đức một cách uyển chuyển và hiệu quả.

 

 

 

Vì người hay vì mình?

 

Có một thiếu phụ nọ đến tìm tôi để tham khảo một quyết định. Con chó của bà đã già yếu, không còn ăn uống được nữa và nằm bất động một chỗ. Bác sĩ thú ý đã khuyên bà đừng để nó tiếp tục sống trong tình trạng như thế nữa, phải tiêm một mũi thuốc để giúp nó ra đi. Bà ấy biết điều bác sĩ khuyên là đúng nhưng bà làm không được. Bà cảm thấy tội nghiệp cho con chó, vì nó đã sống trung thành và thân thiết như một người bạn suốt mười lăm năm qua - kể từ khi bà ly dị chồng và sống hiu quạnh một mình. Tôi đã hỏi bà: "Nếu bà đã biết con chó đang trong cơn đau đớn như thế mà bà vẫn muốn níu kéo thì thật sự là bà đang thương nó hay thương chính bà?". Bà ấy lặng im rất lâu mà không trả lời được. Tôi nói thêm: "Nếu bà lấy cảm xúc cô đơn của mình ra để đặt mình vào nỗi khổ sở của con chó thì bà sẽ hiểu nó muốn gì trong lúc này. Bà thật sự thương nó thì hãy làm theo ý  của nó đi. Bà phải can đảm chấp nhận sự mất mát này để đối tượng thương yêu của bà được mãn nguyện và hạnh phúc". Nghe tới đây bà mới thấm thía và an lòng chấp nhận.

 

Khi hay tin người thân yêu đang trong cơn hấp hối, ta thường hay hốt hoảng than khóc và dốc lòng cầu nguyện cho người ấy đừng chết. Câu hỏi đặt ra là ta thật sự muốn người ấy sống vì biết họ đang rất cần được sống, hay vì ta đang thương cho cái cảm xúc cô đơn hụt hẫng của mình? Hai thái độ hoàn toàn khác nhau - một cái vì người, một cái vì mình. Cũng có khi ta rơi vào tình trạng vừa vì người mà cũng vừa vì mình. Nhưng ta thường không thấy được sự thật ấy, nên lúc nào ta cũng tưởng là mình đã hết lòng vì người kia. Sự cầu nguyện như thế cũng khó mà thành công. Một trong những điều kiện để sự cầu nguyện thành công là ta phải dồn hết 100% tâm ý để hướng đến đối tượng. Tâm chưa thật trong sạch thì không thể vay nợ vũ trụ. Cũng như khi quyết định không tha thứ hay trừng phạt người kia thì ta hay cho rằng mình phải làm như thế mới có thể giúp họ tỉnh ngộ. Nhưng sự thật là do ta bị cảm xúc tổn thương khống chế và muốn phóng thích nó bằng hành động trả đũa. Nếu hoàn toàn vì họ thì ta sẽ có vô số cách hữu hiệu hơn so với những hành động nặng nề kia. Và cách tốt nhất là dùng tình thương chân thành để cảm hóa.

 

Trong bài hát Để gió cuốn đi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thật tinh tế khi viết: "Hãy nghiêng đời xuống/ Nhìn suốt một mối tình/ Chỉ lặng nhìn không nói năng/ Để buốt trái tim/ Để buốt trái tim". Khi thật lòng muốn giúp đỡ người nào, ta phải có khả năng thoát khỏi vai của mình để sẵn sàng bước vào vai của người kia thì ta mới có thể gần gũi và thấu hiểu họ được. Ta phải "nghiêng xuống" bên họ vì ta đang trong tình trạng lành lặn, năng lượng dồi dào và trong vị trí của người hiến tặng. Ngoài ra, cần có thêm hai điều kiện nữa. Thứ nhất, phải có khả năng im lặng quan sát mà không lên tiếng trách móc hay buộc tội. Thứ hai, phải chuẩn bị tinh thần đón nhận những năng lượng tiêu cực trong tâm người kia tràn ra bất cứ lúc nào - nó có thể làm "buốt trái tim" ta. Biết sẽ chịu nhiều mất mát, thiệt thòi trong khi cứu giúp mà ta vẫn toàn tâm chấp nhận là vì ta có một tấm lòng lớn, một tình thương chân thật. Tình thương chân thật là tình thương không có điều kiện hay rất ít điều kiện. Nó rất nhẹ. Nhẹ đến nỗi gió có thể cuốn đi khắp ngàn phương - "Sống trong đời sống/ Cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không?/ Để gió cuốn đi/ Để gió cuốn đi".

 

Tình thương là món quà cao quý nhất mà ai cũng cần. Dù ta hiến tặng bất cứ món quà nào thì tấm lòng chân thật mới thật sự quyết định nên giá trị đích thực của sự hiến tặng.

 

 

Tất cả cũng tàn phai

Chỉ tình thương ở lại

Những gì trao hôm nay

Sẽ theo nhau mãi mãi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 11671)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14825)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
22/08/2021(Xem: 3426)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 4155)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16355)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12380)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7678)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19785)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11527)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9005)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567