Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới

01/11/201420:09(Xem: 11238)
Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới

 

vu tru2Trong các kinh tạng, Phật nói nhiều về ‘tam thiên, đại thiên’ thế giới và đa số chúng ta thường hình dung rằng những thế giới này nằm bên ngoài trái đất, thế giới của các vị trời, thần… Vì chưa chứng được thần thông nên chúng tôi không thể nhìn thấy được những thiên giới đó!  Nhưng thật ra nếu quán chiếu cho sâu, chúng ta sẽ thấy rằng có những thế giới không đâu xa mà chính ngay bên trong cõi ta bà, nơi mình đang sống.  

 

Xin đơn cử một vài ví dụ về thế giới quanh ta:  thế giới đàn ông, thế giới đàn bà, thế giới đàn bà không chồng, có chồng, có một con hoặc nhiều con…thế giới người điên, người nổi tiếng, giàu sang…thế giới của các nhà chính trị, của thương mại, buôn bán… Đó chỉ là nói sơ về thế giới loài người.  Còn những thế giới của các loại động vật trên đất và dưới nước...  Khi xem những phim tài liệu về hình ảnh các loại động vật này, chúng ta mới có ý thức về thế giới của những sinh vật kia sống ra sao!  Cứ mỗi thế giới đều có những hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt khác nhau.  Thậm chí, tình cảm cũng khác biệt. 

Trong 4 thế giới của sinh, già, bệnh, và chết mà Phật thường nói đến, chúng ta sẽ khó có thể trải nghiệm hạnh phúc, an vui, nổi khổ, niềm đau thật sự cho đến khi chính bản thân mình phải sống trong thế giới đó.  Khi còn khỏe mạnh chúng ta ít có khi nào thấu hiểu được những người sống trong thế giới bệnh tật phải chịu khổ ra sao.  Cũng như khi còn trẻ, mình ít khi nào hiểu được tâm ý và khả năng của những người già. Thế giới của họ, tuy gần chúng ta trong gang tấc, nhưng đời sống của họ thật khác biệt. Tuy nhiên, may mắn thay ai rồi cũng sẽ có cơ hội để thử nghiệm!

vu tru3
Sống trong thế giới bị bao kín với những âu lo, toan tính khiến mình không thể thấy và hiểu rõ thêm.  Như khi đức Phật còn là thái tử bị vua cha giam lõng trong cung điện vàng son, hưởng thụ những thú vui dục lạc.  Hơn ai hết, nhà vua hiểu rõ chỉ có cách đó mới che mắt thái tử từ những thế giới bên ngoài cổng thành.  Như chúng ta biết khi ra khỏi cổng thành thái tử Sĩ Đạt Ta mới tận mắt chứng kiến những cảnh đời khác nhau khiến Ngài bắt đầu hiểu rõ về thân phận con người.  

 

Sống ở xứ Mỹ này chúng ta cũng trải nghiệm giống như đức Phật đã từng kinh nghiệm.  Chúng ta bị đóng kín trong khuôn khổ từ nhà đến sở làm và từ sở làm về nhà.  Hoặc khi đi mua sắm, chúng ta chỉ nhìn thấy và sống trong thế giới của người tiêu thụ, tiền bạc và danh lợi.  Hầu như ít khi nào chúng ta chứng kiến những cảnh đau khổ, bệnh tật.  Cách tổ chức khéo léo của chính phủ, giống như vua Tịnh Phan, người bệnh thì có bệnh viện, người già thì có viện dưỡng lão, người chết thì có nhà quàn... 

 

Thế giới nào đều được phân minh theo thế giới đó nên hiếm khi chúng ta có cơ hội để tìm hiểu. Cho nên khi nói đến cảm thông, thương yêu chúng ta bỗng cảm thấy xa lạ vì thế giới mình đang sống mọi người đều tự lo cho chính mình, thậm chí hàng xóm với nhau mà không quen không biết!  Sống trong cái thế giới đóng kín, ích kỷ đã khiến mình cũng trở nên đóng kín và ích kỷ.  Tất cả những công sức mình đổ ra cũng chỉ để phụng sự cho cái lối sống ích kỷ đó.  Đôi lúc mình có làm việc phước thiện chăng nữa thì cũng nghĩ về lợi cho mình nhiều hơn cho người.

Thực ra, chúng ta ai cũng có những đặc tính của Phật và chư Bồ tát trong ta.  Nhưng lâu ngày sống trong thế giới của ích kỷ, tham dục nên mình không còn nhìn thấy những đặc tính mà Phật đã nêu ra.  Như câu chuyện có một con đại bàng đẻ ra 2 trứng lớn. Nhưng trong lúc loay hoay ấp trứng đã làm rơi một trứng từ ổ của nó. May thay, quả trứng bị rơi xuống đất nhưng không bị vỡ.  Sau đó, có một con gà đẻ trứng gần bên.  Nó thấy quả trứng đại bàng tưởng nhầm là trứng của nó nên đem về ổ ấp.  Khi đàn gà con nở ra thì con đại bàng con cũng nở.  Mỗi khi gà mẹ dẫn con đi ăn, tiếng kêu chíp chíp thì đại bàng con cũng cất tiếng theo.  

 

Tuy nhiên, mỗi khi băng ngang một cánh đồng trống thì gà mẹ luôn cảnh báo các con mình về một con chim lạ to lớn tên đại bàng trên trời, có móng vuốt bén nhọn, luôn tìm cách bắt gà con để ăn.  Nên mỗi khi gà mẹ thấy bóng dáng giống chim đại bàng trên trời thì đều la to cục tác, và đàn gà con và con đại bàng con liền cắm đầu, cắm cổ chạy thụt mạng vào bãi cỏ cao để ẩn trốn.  Giống như đại bàng con, chúng ta không biết mình cũng cùng giống đại bàng nên đã giam hãm tâm mình trong thế giới của gà con luôn hoảng sợ!

Muốn hiểu thấu đáo xem những người trong thế giới khác sống ra sao thì mình phải đến sống với họ, hay ít nhất chứng kiến hay quan sát cách họ sống. Như để biết thế giới của người già, chúng ta có thể xin làm thiện nguyện tại các nhà dưỡng lão.  Hàng ngày mình tiếp xúc với họ, chuyện trò, hỏi han.  Chứng kiến những loay hoay vật vã của một đời sống già nua thì mình sẽ cảm thông hơn.  Cũng như trong thế giới của trẻ thơ, chúng sống trong vui đùa, vô tư, vô lự. Nếu chúng ta bắt chúng phải sống theo mình thì người ta sẽ nói rằng đứa bé này ‘già trước tuổi.’  

 

Như trong bài viết trước, chúng tôi so sánh sự bố thí của người nghèo và người giàu.  Theo thống kê thì người nghèo bố thí nhiều gần gấp đôi người giàu.  Vì sao? Vì người nghèo cùng sống chung, hay ít nhất sống gần, những người cùng khổ nên họ dễ cảm thông hơn.  Nhưng cũng cùng một thống kê cho thấy nếu người giàu sang sống trong cùng cộng đồng của kẻ nghèo thì họ cũng bố thí ngang với người nghèo hay hơn.  Thế mới biết rằng: ‘không nằm chung chăn làm sao biết chăn có rận, rệp?’

Nhờ thấu hiểu được thế giới quanh ta mà mình có thể dễ dàng phát khởi tâm từ bi, thương yêu và cảm thông vì mình không những tận mắt chứng kiến mà còn trải qua những kinh nghiệm trong thế giới đó.  Như vậy, hiểu rõ những thế giới quanh mình thì giúp ích được gì cho sự tụ tập?  Nhờ thấu hiểu, chúng ta sẽ dễ dàng phát sanh tâm từ bi, cảm thông, và hành xử một cách hợp tình, hợp lý.  Mình không 'đứng núi này, trông núi nọ' mà thật sự hiểu thấu những khổ đau, hạnh phúc của những người trong thế giới đó.  

 

Chẳng hạn như bà Barbara Ehrenreich, tiến sĩ về sinh vật học, muốn nghiên cứu và tìm hiểu đời sống của những người làm những công việc lao động, như bồi bàn, dọn dẹp nhà cửa cho người khác, chăm sóc trẻ con .v.v... trên khắp nước Mỹ.  Bà ta bèn cải trang thành một người lao động nghèo và nhập vào vai của những người kia.  Vì muốn trung thành với sự nghiên cứu của mình, bà cố gắng sống theo những số tiền bà kiếm được khi làm các công việc lao động.  

 

Bà dùng số tiền kiếm được đó để mướn nhà, mua thức ăn, trả tiền điện, tiền nước, và các món linh tinh khác. Sau 6 tháng sống trong thế giới của những người lao động, bà đành phải bỏ cuộc, chào thua vì bà phải cật lực vất vả lắm mới đủ chi phí cho cuộc sống của bà.  Sau cuộc nghiên cứu này, bà viết một quyển sách tựa đề: ‘Những Nghề Rẻ Tiền’ (Nickel and Dimed), mô tả đời sống cơ cực của những người lao động nghèo trên xứ Mỹ và bà đã đấu tranh cho những người này được có thêm sự giúp đỡ của chính phủ và ủng hộ của dân chúng Hoa kỳ.

Chúng ta thường cư xử và dán nhãn mọi người tùy theo hành động họ đã làm, như ai giết người thì mình gọi họ là sát nhân, ai lường gạt thì gọi họ là tên lường gạt, v.v… Nhưng nếu chúng ta có sống và có hiểu những người sống trong thế giới đó thì mình sẽ thấy rằng họ là một con người đã có hành động giết người hay lường gạt, chớ họ không phải thực sự là một tên sát nhân, hay kẻ tráo trở, dối gạt…  

 

Chính vì chưa từng sống và hiểu những con người như vậy nên chúng ta luôn cho họ là những người xấu, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.  Nhưng nếu như chính mình hay người thân của mình đã làm những hành động đó, và vì là người trong cuộc nên chúng ta biết rõ người này là ai.  Vậy, chúng ta có còn gọi họ là tên sát nhân hay lường gạt nữa không?  Nhờ hiểu thấu nên lòng từ bi phát sinh khiến mình chỉ thấy một con người đã làm điều xấu, chứ thật ra, họ không phải là một người hoàn toàn như vậy!  

 

Tôi rất thích cuốn tiểu thuyết Những người khốn khổ (Les Misérables) của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862.  Câu chuyện nói về Jean Valjean, người cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. May cho anh là Giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện, đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu và một lối thoát. 

 
vu tru

Nhưng Jean lại ăn cắp những thứ đồ bạc của Giám mục và chạy trốn, anh bị bắt lại sau đó nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay, vị Giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người, và Jean Valjean đã thực hiện được.  Rõ ràng, thi hào Victor Hugo, qua hình ảnh của Giám mục Myriel, đã hiểu thấu tâm trạng và tấm lòng của Jean Valjean, một kẻ tội phạm.

Biết bao nhiêu chúng sinh, biết bao nhiêu con người đang sống trong thế giới khắp nơi, chỉ cần mình mở mắt, mở lòng, nhìn xa, trông rộng thì mình sẽ thấy tất cả.  Tâm chúng ta giống như một kho lớn chứa đựng tất cả mọi hạt mầm xấu và tốt, chúng ta cần phải biết tưới tẩm những hạt mầm nào đem lại hạnh phúc, an lạc bằng cách biết nhìn với trái tim rộng mở và trải nghiệm qua những thế giới quanh mình.  

 

Càng trải nghiệm nhiều với lòng không phân biệt thì mình mới cảm nhận được cái thế giới tam thiên, đại thiên, mênh mông bát ngát trong cõi ta bà này.  Ông bà mình có câu: ‘Đi một ngày đàng, học một sàng khôn’ Chữ khôn theo tôi hiểu là nhờ có từng trải nên chúng ta có sự hiểu biết, bao dung, và rộng lượng.  Chỉ khi nào mình có hiểu biết thì mới có thể cảm thông và thương yêu được!

San Jose, tháng 10, 2014
Thiện Ý  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2013(Xem: 5850)
Nhiều người cho rằng đức tin và trí tuệ trong thiền quán (vipassanà) đối nghịch nhau, mâu thuẫn và không thể phối hợp. Không phải vậy! chúng thân hữu và là hai nội lực quan trọng. Trong thông tin vừa rồi, tôi đã viết về những điểm đặc thù và khác biệt giữa các hành giả châu Aù và phương Tây.
29/03/2013(Xem: 10222)
Tư tưởng hiện đại hay (tâm hồn hiện đại) cũng không xa tư tưởng ngày xưa là mấy. Những triết gia từ thiên cổ đã mở rộng tâm thức bao quát mọi chân trời. Có người đã lặng thinh.
01/03/2013(Xem: 6517)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo, làm căn bản cho bộ Duy thức luận của Vasubandhu. Học thuyết Duy tâm được biểu hiện trong các câu quen thuộc, thường được trích dẫn trong kinh Lăng Già, chỗ nào cũng là tâm cả (nhất thiết xứ giai tâm), tất cả hình tướng đều do tâm khởi lên (chúng sắc do tâm khởi), ngoài tâm không có cái gì được trông thấy (tâm ngoại vô sở kiến), thế gian chỉ là tâm (tam giới duy thị tự tâm), ba cõi do tâm sinh (tam giới do tâm sinh) v.v..
26/02/2013(Xem: 4129)
Kinh Đại Bát Nhãnói Bồ-tát là người “Vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cứu độ những chúng sanh điên đảo chấp ngã” (Phẩm Đạo thọ thứ 71), “vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác” (Phẩm Nhất niệm thứ 76), “hành sáu ba la mật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại, mười tám pháp bất cọng, hành đại từ đại bi, hành nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh” (Phẩm Bồ-tát hạnh thứ 72).
12/01/2013(Xem: 4844)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì của bản văn, giải thích chủ yếu. Phần này có ba phần: ý nghĩa danh đề của bản văn, nội dung của bản văn và lời cuối. Chương 1 của Giải thích Trung Luận này gồm có Các giải thích mở đầu [= Giải thích Trung Luận. (Bài 1)], Tụng mở đầu Trung luận [Giải thích Trung Luận (Bài 2)], và Giải thích về chương 1 của Trung Luận. Phần thứ nhì là giải thích các chương từ chương 2 tới chương 27.
09/01/2013(Xem: 3818)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng. Nếu toàn thể và những bộ phận tồn tại trong cách mà chúng hiện diện đối với quý vị, quý vị phải có thể chỉ ra một tổng thể riêng biệt với những phần tử của nó. Nhưng quý vị không thể làm như thế.
31/12/2012(Xem: 6516)
Phật giáo hiện hữu trên đất nước Việt Nam, hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của đất nước Phật giáo luôn làm tròn sứ mệnh của một tôn giáo gắn liền với nền văn hoá nước nhà. Chiến tranh đi qua, để lại bao đau thương mất mát, cảnh vật hoang tàn, đời sống nhân dân nghèo đói cơ hàn. Đến thời độc lập, ngoại xâm không cò n nữa, đất nước từng bước chuyển mình đi lên, Phật giáo cũng nhịp nhàn thay màu đổi sắc vươn lên, GHPGVN được ra đời vào ngày 07/11/1981 đến nay gần 22 năm với VI nhiệm kỳ hoạt động của giáo hội.
29/12/2012(Xem: 5800)
Chủ đề của sách này chính là ‘không’. Nói đơn giản: cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp. Cái không của Bát-nhã là ‘nghĩa sâu sắc’ của sự thể ngộ. Cái không của Long thọ là là giả danh, tánh không của kinh Bát-nhã, và sự thống nhất trung đạo và duyên khởi của kinh A-hàm.
28/12/2012(Xem: 10178)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
12/12/2012(Xem: 6339)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánh – Phật giới (buddha-dhātu), v.v., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều, nhưng làm tính khả năng để thành Phật, trên phương diệt bổn tánh chẳng phải là hai của chúng sanh và Phật để nói, thì có ý nghĩa nhất trí với nhau. Tại Ấn-độ, sự hưng khởi của thuyết Như lai tạng khoảng vào thế kỷ thứ 3 A.D., từ giai đoạn sơ kỳ Đại thừa tiến vào hậu kỳ Đại thừa Phật giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]