Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới

01/11/201420:09(Xem: 10579)
Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới

 

vu tru2Trong các kinh tạng, Phật nói nhiều về ‘tam thiên, đại thiên’ thế giới và đa số chúng ta thường hình dung rằng những thế giới này nằm bên ngoài trái đất, thế giới của các vị trời, thần… Vì chưa chứng được thần thông nên chúng tôi không thể nhìn thấy được những thiên giới đó!  Nhưng thật ra nếu quán chiếu cho sâu, chúng ta sẽ thấy rằng có những thế giới không đâu xa mà chính ngay bên trong cõi ta bà, nơi mình đang sống.  

 

Xin đơn cử một vài ví dụ về thế giới quanh ta:  thế giới đàn ông, thế giới đàn bà, thế giới đàn bà không chồng, có chồng, có một con hoặc nhiều con…thế giới người điên, người nổi tiếng, giàu sang…thế giới của các nhà chính trị, của thương mại, buôn bán… Đó chỉ là nói sơ về thế giới loài người.  Còn những thế giới của các loại động vật trên đất và dưới nước...  Khi xem những phim tài liệu về hình ảnh các loại động vật này, chúng ta mới có ý thức về thế giới của những sinh vật kia sống ra sao!  Cứ mỗi thế giới đều có những hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt khác nhau.  Thậm chí, tình cảm cũng khác biệt. 

Trong 4 thế giới của sinh, già, bệnh, và chết mà Phật thường nói đến, chúng ta sẽ khó có thể trải nghiệm hạnh phúc, an vui, nổi khổ, niềm đau thật sự cho đến khi chính bản thân mình phải sống trong thế giới đó.  Khi còn khỏe mạnh chúng ta ít có khi nào thấu hiểu được những người sống trong thế giới bệnh tật phải chịu khổ ra sao.  Cũng như khi còn trẻ, mình ít khi nào hiểu được tâm ý và khả năng của những người già. Thế giới của họ, tuy gần chúng ta trong gang tấc, nhưng đời sống của họ thật khác biệt. Tuy nhiên, may mắn thay ai rồi cũng sẽ có cơ hội để thử nghiệm!

vu tru3
Sống trong thế giới bị bao kín với những âu lo, toan tính khiến mình không thể thấy và hiểu rõ thêm.  Như khi đức Phật còn là thái tử bị vua cha giam lõng trong cung điện vàng son, hưởng thụ những thú vui dục lạc.  Hơn ai hết, nhà vua hiểu rõ chỉ có cách đó mới che mắt thái tử từ những thế giới bên ngoài cổng thành.  Như chúng ta biết khi ra khỏi cổng thành thái tử Sĩ Đạt Ta mới tận mắt chứng kiến những cảnh đời khác nhau khiến Ngài bắt đầu hiểu rõ về thân phận con người.  

 

Sống ở xứ Mỹ này chúng ta cũng trải nghiệm giống như đức Phật đã từng kinh nghiệm.  Chúng ta bị đóng kín trong khuôn khổ từ nhà đến sở làm và từ sở làm về nhà.  Hoặc khi đi mua sắm, chúng ta chỉ nhìn thấy và sống trong thế giới của người tiêu thụ, tiền bạc và danh lợi.  Hầu như ít khi nào chúng ta chứng kiến những cảnh đau khổ, bệnh tật.  Cách tổ chức khéo léo của chính phủ, giống như vua Tịnh Phan, người bệnh thì có bệnh viện, người già thì có viện dưỡng lão, người chết thì có nhà quàn... 

 

Thế giới nào đều được phân minh theo thế giới đó nên hiếm khi chúng ta có cơ hội để tìm hiểu. Cho nên khi nói đến cảm thông, thương yêu chúng ta bỗng cảm thấy xa lạ vì thế giới mình đang sống mọi người đều tự lo cho chính mình, thậm chí hàng xóm với nhau mà không quen không biết!  Sống trong cái thế giới đóng kín, ích kỷ đã khiến mình cũng trở nên đóng kín và ích kỷ.  Tất cả những công sức mình đổ ra cũng chỉ để phụng sự cho cái lối sống ích kỷ đó.  Đôi lúc mình có làm việc phước thiện chăng nữa thì cũng nghĩ về lợi cho mình nhiều hơn cho người.

Thực ra, chúng ta ai cũng có những đặc tính của Phật và chư Bồ tát trong ta.  Nhưng lâu ngày sống trong thế giới của ích kỷ, tham dục nên mình không còn nhìn thấy những đặc tính mà Phật đã nêu ra.  Như câu chuyện có một con đại bàng đẻ ra 2 trứng lớn. Nhưng trong lúc loay hoay ấp trứng đã làm rơi một trứng từ ổ của nó. May thay, quả trứng bị rơi xuống đất nhưng không bị vỡ.  Sau đó, có một con gà đẻ trứng gần bên.  Nó thấy quả trứng đại bàng tưởng nhầm là trứng của nó nên đem về ổ ấp.  Khi đàn gà con nở ra thì con đại bàng con cũng nở.  Mỗi khi gà mẹ dẫn con đi ăn, tiếng kêu chíp chíp thì đại bàng con cũng cất tiếng theo.  

 

Tuy nhiên, mỗi khi băng ngang một cánh đồng trống thì gà mẹ luôn cảnh báo các con mình về một con chim lạ to lớn tên đại bàng trên trời, có móng vuốt bén nhọn, luôn tìm cách bắt gà con để ăn.  Nên mỗi khi gà mẹ thấy bóng dáng giống chim đại bàng trên trời thì đều la to cục tác, và đàn gà con và con đại bàng con liền cắm đầu, cắm cổ chạy thụt mạng vào bãi cỏ cao để ẩn trốn.  Giống như đại bàng con, chúng ta không biết mình cũng cùng giống đại bàng nên đã giam hãm tâm mình trong thế giới của gà con luôn hoảng sợ!

Muốn hiểu thấu đáo xem những người trong thế giới khác sống ra sao thì mình phải đến sống với họ, hay ít nhất chứng kiến hay quan sát cách họ sống. Như để biết thế giới của người già, chúng ta có thể xin làm thiện nguyện tại các nhà dưỡng lão.  Hàng ngày mình tiếp xúc với họ, chuyện trò, hỏi han.  Chứng kiến những loay hoay vật vã của một đời sống già nua thì mình sẽ cảm thông hơn.  Cũng như trong thế giới của trẻ thơ, chúng sống trong vui đùa, vô tư, vô lự. Nếu chúng ta bắt chúng phải sống theo mình thì người ta sẽ nói rằng đứa bé này ‘già trước tuổi.’  

 

Như trong bài viết trước, chúng tôi so sánh sự bố thí của người nghèo và người giàu.  Theo thống kê thì người nghèo bố thí nhiều gần gấp đôi người giàu.  Vì sao? Vì người nghèo cùng sống chung, hay ít nhất sống gần, những người cùng khổ nên họ dễ cảm thông hơn.  Nhưng cũng cùng một thống kê cho thấy nếu người giàu sang sống trong cùng cộng đồng của kẻ nghèo thì họ cũng bố thí ngang với người nghèo hay hơn.  Thế mới biết rằng: ‘không nằm chung chăn làm sao biết chăn có rận, rệp?’

Nhờ thấu hiểu được thế giới quanh ta mà mình có thể dễ dàng phát khởi tâm từ bi, thương yêu và cảm thông vì mình không những tận mắt chứng kiến mà còn trải qua những kinh nghiệm trong thế giới đó.  Như vậy, hiểu rõ những thế giới quanh mình thì giúp ích được gì cho sự tụ tập?  Nhờ thấu hiểu, chúng ta sẽ dễ dàng phát sanh tâm từ bi, cảm thông, và hành xử một cách hợp tình, hợp lý.  Mình không 'đứng núi này, trông núi nọ' mà thật sự hiểu thấu những khổ đau, hạnh phúc của những người trong thế giới đó.  

 

Chẳng hạn như bà Barbara Ehrenreich, tiến sĩ về sinh vật học, muốn nghiên cứu và tìm hiểu đời sống của những người làm những công việc lao động, như bồi bàn, dọn dẹp nhà cửa cho người khác, chăm sóc trẻ con .v.v... trên khắp nước Mỹ.  Bà ta bèn cải trang thành một người lao động nghèo và nhập vào vai của những người kia.  Vì muốn trung thành với sự nghiên cứu của mình, bà cố gắng sống theo những số tiền bà kiếm được khi làm các công việc lao động.  

 

Bà dùng số tiền kiếm được đó để mướn nhà, mua thức ăn, trả tiền điện, tiền nước, và các món linh tinh khác. Sau 6 tháng sống trong thế giới của những người lao động, bà đành phải bỏ cuộc, chào thua vì bà phải cật lực vất vả lắm mới đủ chi phí cho cuộc sống của bà.  Sau cuộc nghiên cứu này, bà viết một quyển sách tựa đề: ‘Những Nghề Rẻ Tiền’ (Nickel and Dimed), mô tả đời sống cơ cực của những người lao động nghèo trên xứ Mỹ và bà đã đấu tranh cho những người này được có thêm sự giúp đỡ của chính phủ và ủng hộ của dân chúng Hoa kỳ.

Chúng ta thường cư xử và dán nhãn mọi người tùy theo hành động họ đã làm, như ai giết người thì mình gọi họ là sát nhân, ai lường gạt thì gọi họ là tên lường gạt, v.v… Nhưng nếu chúng ta có sống và có hiểu những người sống trong thế giới đó thì mình sẽ thấy rằng họ là một con người đã có hành động giết người hay lường gạt, chớ họ không phải thực sự là một tên sát nhân, hay kẻ tráo trở, dối gạt…  

 

Chính vì chưa từng sống và hiểu những con người như vậy nên chúng ta luôn cho họ là những người xấu, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.  Nhưng nếu như chính mình hay người thân của mình đã làm những hành động đó, và vì là người trong cuộc nên chúng ta biết rõ người này là ai.  Vậy, chúng ta có còn gọi họ là tên sát nhân hay lường gạt nữa không?  Nhờ hiểu thấu nên lòng từ bi phát sinh khiến mình chỉ thấy một con người đã làm điều xấu, chứ thật ra, họ không phải là một người hoàn toàn như vậy!  

 

Tôi rất thích cuốn tiểu thuyết Những người khốn khổ (Les Misérables) của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862.  Câu chuyện nói về Jean Valjean, người cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. May cho anh là Giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện, đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu và một lối thoát. 

 
vu tru

Nhưng Jean lại ăn cắp những thứ đồ bạc của Giám mục và chạy trốn, anh bị bắt lại sau đó nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay, vị Giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người, và Jean Valjean đã thực hiện được.  Rõ ràng, thi hào Victor Hugo, qua hình ảnh của Giám mục Myriel, đã hiểu thấu tâm trạng và tấm lòng của Jean Valjean, một kẻ tội phạm.

Biết bao nhiêu chúng sinh, biết bao nhiêu con người đang sống trong thế giới khắp nơi, chỉ cần mình mở mắt, mở lòng, nhìn xa, trông rộng thì mình sẽ thấy tất cả.  Tâm chúng ta giống như một kho lớn chứa đựng tất cả mọi hạt mầm xấu và tốt, chúng ta cần phải biết tưới tẩm những hạt mầm nào đem lại hạnh phúc, an lạc bằng cách biết nhìn với trái tim rộng mở và trải nghiệm qua những thế giới quanh mình.  

 

Càng trải nghiệm nhiều với lòng không phân biệt thì mình mới cảm nhận được cái thế giới tam thiên, đại thiên, mênh mông bát ngát trong cõi ta bà này.  Ông bà mình có câu: ‘Đi một ngày đàng, học một sàng khôn’ Chữ khôn theo tôi hiểu là nhờ có từng trải nên chúng ta có sự hiểu biết, bao dung, và rộng lượng.  Chỉ khi nào mình có hiểu biết thì mới có thể cảm thông và thương yêu được!

San Jose, tháng 10, 2014
Thiện Ý  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2012(Xem: 5351)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
18/09/2012(Xem: 10554)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
06/09/2012(Xem: 3641)
Gần năm tháng nay, hắn đã sống hững hờ như một thây ma; mỗi ngày bắt đầu lại một mặt trời cũ, dâng lên trên những mái nhà một xác thối của mặt trời, ánh sáng của đèn cầy còn dễ thở hơn ánh sáng của mỗi ngày dư máu. Máu ứ đọng lại trong lòng mặt trăng của tư tưởng. Hắn thù ghét sanh từ, động từ “ý thức” và thù ghét cả tính từ “ý thức”.
25/08/2012(Xem: 7905)
Đây là bài nói chuyện của Tỳ Kheo Bodhi trong chương trình Google Techtalks vào ngày 3 /11/2010. Trong phần mở đầu, Tỳ Kheo Bodhi nói rằng Ngài biết anh bạn Quản lý chương trình Techtalks là người thích hài hước, nên Ngài phải chọn một nhan đề mang tính hài hước cho bài nói chuyện này là:“ Cần Có Hai Người Để Nhảy Điệu Tango ”,( vì Ngài e ngại bài nói chuyện của Ngài sẽ tẻ nhạt đối với thính giả). Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc, thì đề tài của buổi nói chuyện này sẽ là: “Tương Lai Nhân Loại và Tương Lai Phật Giáo ”.
02/08/2012(Xem: 14237)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
19/07/2012(Xem: 10672)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
09/07/2012(Xem: 6188)
Giáo pháp về mười hai chi duyên khởi là chung cho tất cả các truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, sự diễn dịch về mười hai chi, những tiến trình của chúng, và đặc biệt sự giải thích về chi thứ nhất, vô minh, học phái Trung Quán giải thích có sai biệt nhiều hơn khi so sánh với các giải thích trong các học phái triết học khác.
15/06/2012(Xem: 5246)
Trong kinh điển Phật giáo , có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một sồ câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế . Đức Phật thấy rõ , những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu , hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ức đoán ; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật . Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng .
05/06/2012(Xem: 28506)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
31/05/2012(Xem: 6246)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567