Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Khúc Thán Ca Vô Thường Bất Hủ

05/11/201321:17(Xem: 27100)
17. Khúc Thán Ca Vô Thường Bất Hủ

mot_cuoc_doi_bia_3




Khúc Thán Ca

Vô Thường Bất Hủ





Rời Nālakagāma, đức Phật và đại chúng bộ hành theo con đường thương mãi để đến thị trấn Pāṭaligāma phồn vinh bên này phía nam sông Gaṅgā. Tại đây, ngài dừng chân một vài trú xứ, sách tấn tăng ni, sau đó vượt sông lên Vesāli...

Sau trận tai họa dịch bệnh, Vesāli phục hồi sinh lực rất nhanh. Nhờ biết tin vào những giá trị thiêng liêng, biết đoàn kết, biết sinh hoạt hội đồng với tinh thần dân chủ, biết cải cách chính sách kinh tế - nên đất nước sớm giàu mạnh, thịnh cường. Đi vào thành phố, chỗ này cũng công trường, chỗ kia cũng công trường. Ba bức tường thành chớn chở và kiên cố vòng quanh Vesāli như những vòng đai thép bảo vệ kinh đô - có ba cửa lớn vào ra luôn luôn có lính ôm gươm giáo sáng lòa. Rồi những vọng gác và những vọng gác, đêm đêm hỏa đăng sáng rực. Những dãy phố, dãy lầu kéo dài từng dặm, từng dặm phô ra tất cả mọi đường nét và sắc màu nguy nga tráng lệ...

Đi bên sau đức Phật, chư tăngi trầm trồ vì coi chừng, Vesāli sẽ vượt trội Rājagaha!

Biết đức Chánh Đẳng Giác không muốn xen vào một nhận xét nào, nên tôn giả Sāriputta nói:

- Là bậc xuất gia phạm hạnh, chúng ta không nên góp ý về việc phú cường của một quốc độ. Riêng tôi thì chỉ thấy lòng người thể hiện ra bên ngoài mà thôi! Tôi đọc được rằng, đó là tham vọng chinh phục, tham vọng bá chủ và cả tham vọng củng cố quyền lực. Tôi lại còn nghe mùi binh đao và máu lửa nữa đấy!

Nghe vậy, đức Phật bảo:

- Hãy ghi nhớ lời của Sāriputta! Đấy cũng là pháp duyên khởi đương nhiên vậy!

Đêm đó, đức Phật và đại chúng ngụ ở Đại Lâm. Tôn giả Sāriputta dẫn hai cô em gái sang ni viện để hôm sau cho thọ giới.

Cuộc lễ vừa chấm dứt thì tỳ-khưu-ni Ambapālī từ ngoài vào, đến đảnh lễ đức Phật và chư tôn trưởng lão. Đức Phật mỉm nụ cười nhẹ:

- Này con gái, đời sống phạm hạnh với tuổi già có thấy dễ chịu không?

- Rất mát mẻ và thảnh thơi, bạch đức Thế Tôn!

- Ừ! Đức Phật gật đầu - Con cũng đã trải qua không biết bao nhiêu là gian truân, chìm nổi. Chỉ do một phát ngôn bất cẩn, thiếu thận trọng mà con đã chịu không biết bao nhiêu kiếp đọa đày, thống khổ.

- Đệ tử cũng đã biết rồi, đã thấy rồi, bạch đức Thế Tôn!

Thế là cả đại chúng hôm đó đều đã biết người kỹ nữ nỗi tiếng thành Vesāli, vị tỳ-khưu-ni già đã chứng quả A-la-hán, luôn cả thần thông.

Và đây là câu chuyện của nàng.

Sau khi xuất gia, tỳ-khưu-ni Ambapālī không được vui do tuổi già, không còn đủ lanh lẹ trong mọi sinh hoạt như các tỳ-khưu-ni khác. Có một dao động mãnh liệt khi thấy bản chất già yếu, lụm khụm, mệt mỏi... và sự biến đổi, thay đổi của thân xác.

Hôm kia, ngồi bên bờ suối vắng vẻ, nhìn ngắm chiếc bóng già nua thấp thoáng ẩn hiện trong dòng nước, tỳ-khưu-ni Ambapālī kinh cảm, tràn đầy xúc động, thốt lên một bài kệ như sau:

“ - Ôi! Mái tóc thanh xuân của ta,

Mái tóc màu xanh sậm tợ mắt con ong chúa

và bồng bềnh sóng gợn từ gốc tới ngọn

Bây giờ sắc đẹp ấy đã bị phá hủy

Do bệnh hoạn, do tuổi già

Do lửa thời gian thiêu đốt

Nó khô rang giống như sợi vỏ cây gai dầu

Ai rồi cũng phải bị tuổi già khống chế,

bị sự vô thường chi phối

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Mái tóc của ta tỏa hương thơm

giống như một hộp đựng châu báu

hoặc như một hộp đựng hương

Do trên đầu ta luôn phủ đầy hoa puppheti,

hoa campaka, hoa aribian

cùng bột hương và các loại hương liệu tế nhị, quý phái

Còn nữa, mái tóc ta dày rậm

như một khu rừng khéo trồng,

mỗi sợi tóc là mỗi gốc cây luôn được bảo vệ,

chăm sóc như trong công viên của hoàng gia,

Nó mềm mại, êm ái và sực nức thơm tho.

Lại còn được làm đẹp

với lược gắn bằng vàng ròng tinh chất,

với trâm cài có đính kim cương -

Nó óng ánh, đẹp đẽ

và chói sáng giống như ngày hội của muôn sao

Bây giờ thì nó đã thưa thớt dần

Sau khi cạo bỏ,

nó lại phảng phất mùi hôi như lông chú cún,

khó chịu như mùi lông cừu

Ôi! Quả đúng là một rừng bất tịnh

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Đôi làn mi của ta

đã được họa sĩ trứ danh khéo vẽ

Đẹp tựa vầng trăng lưỡi liềm

Nó không những điểm màu xanh tinh tế,

màu gợi cảm tinh tế

mà còn pha thêm hồn của liễu rủ,

hồn của những sợi tơ con bướm ngài

Phải nói là nó đẹp đến tuyệt mỹ, vô song

Bây giờ đôi làn mi ấy

chỉ còn là những sợi rơm rạ khô vàng

kéo theo những tia nhăn nheo phủ xuống mệt mỏi,

báo hiệu sự già lão, chết chóc

Ôi! Một thời,

Đôi mắt của ta đen huyền và xanh thẳm

như đôi mắt của chúa bồ câu,

chúa thiên nga, chúa nai trong rừng sâu

Nó lại còn rực rỡ, chói ngời

nhưng xanh trong và tỏa sáng dịu dàng

như hai luồng châu báu

Bây giờ, tháng năm biến đổi

Nó đã đục lờ như nước sữa chua

Nó đã lấm tấm mọc lên li ti

những mụn bụi, mụn cát màu xám nâu

Nó xấu xí, bạc nhược và vô hồn đến nỗi,

có thể đem so với đôi mắt con cá chết,

nhưng mà con cá chết ươn!

Ôi! Đang lúc tuổi trẻ dậy thì

Mũi của ta mềm dịu,

Ngay thẳng và sáng trong

Sống mũi là một gò núi tinh tế, tuyệt hảo

Nó kiều diễm như châu ngọc không có tỳ vết

Bây giờ thì nó sụp xuống như ống cống bị gãy

lại còn tươm rỉ nước mũi lệt sệt hôi hám

Ôi! Sự thật vô thường thật là khó kham, khó nhẫn;

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Đôi tai của ta, vành tai,

trái thùy châu của ta

Nó được những vòng vàng, vòng ngọc,

vòng bạc khéo chế tạo, tế nhị điểm trang

Nó sáng chói như ngọc chuốt

Bây giờ thì nó chảy xệ xuống,

nhăn nheo rủ xuống như hai miếng giẻ rách

Ôi! Sự thật vô thường thật đáng sợ

Đúng như lời dạy bảo của đấng giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Hàm răng của ta trắng tinh như ngà,

đều đặn như hạt lựu, hạt bắp,

trắng nõn như búp măng chuối mới sinh

Nay thì nó bị bể, bị gãy, bị sâu đục

rồi chiếc rụng, chiếc long

và chúng ngả sang màu vàng, đen xỉn

Trông mới ghê sợ, thê thảm dường bao!

Ôi! Một thời,

Giọng nói, âm sắc của ta ngọt ngào, ngọt lịm

Nó êm ái, du dương

Nó mê ly, thánh thót

Nó quyến rũ mê hồn

Khi ta thốt lên thì nó thỏ thẻ, đường mật,

gợi tình như tiếng chim cu

sống chung trong cánh rừng

cùng những ca sĩ non xanh líu lo tấu nhạc

trong một khúc trường xuân miên viễn

Nay thì nó rè rè, khan khàn, đứt đoạn

giống như gió thổi qua ống sáo trúc bị nứt bể!

Ôi! Một thời,

Chiếc cổ của ta thật là kiều diễm

Nó đầy đặn, mềm mại, tròn sáng

Như vỏ ốc xà cừ bằng vàng

được đánh bóng công phu, khéo tay và tinh tế

Giờ đây trông nó như vỏ mướp đắng phơi khô,

có nhiều ngấn quăn queo,

chỉ còn là bì da đựng lớp mỡ thừa,

chảy xệ, nhão nhoẹt.

Ôi! Một thời,

Hai cánh tay trần của ta mềm mại, tròn trịa

vàng sáng như được tô ngọc

hòa thêm với ánh trăng đêm mười sáu

Nó còn giống như hai ống ngọc tròn

vòng quanh ngôi đền tình ái

Nay thì nó đã xiêu đổ, biến dạng, đổi hình

Và nó yếu ớt, tàn tạ

như đóa hoa kèn trắng bệch

không còn chút huyết sắc nào

Ôi! Một thời,

Hai bàn tay của ta trắng trẻo, mềm dịu,

sáng trắng như trứng gà bóc

Lại còn nhẫn vàng, nhẫn ngọc,

nhẫn kim cương, hột xoàn trang điểm

tô chuốt óng ánh bóng ngời

Nay thì nhăn nheo, nhũn nhèo

mềm xèo như cây hành héo

như nhúm cải luộc!

Ôi! Một thời,

Cặp nhũ của ta căng phồng, tròn trịa

Mơn nõn như hai trái đào tiên

đầu vú cứng cáp tràn trề sinh lực

và đỏ hồng như điểm chu sa

Nay thì nó chảy xệ xuống

Như bầu da khô sữa không còn căng đầy

Như túi nước đã rỉ hết nước

ẻo xèo và nhăn nhúm

Ôi! Một thời,

Thân ta thon thả và chói sáng

như áo giáp vàng đánh bóng

Sau khi đã bôi lên một chất son tinh khiết

Đâu cũng mịn màng, láng lẩy

Đâu cũng tròn căng và thơm tho

Nay thì chúng đã xuống cấp

Như ngôi nhà mối mọt

Đã tàn tạ và mục rữa ở khắp mọi nơi

cả những sinh bào bé tí

cũng cau mặt, nhăn nhiu thảm hại

Ôi! Một thời,

Cặp đùi của ta múp míp đầy đặn

ánh ngời như cặp ngà voi

Mềm mại và uyển chuyển

như bước đi của tiên nữ

Và nó đã làm cho bao nhiêu

vương tôn công tử chết đứng chết ngồi

Vì nó đã được ông thợ trời khéo khắc, khéo tạc

Thành một tác phẩm tuyệt mỹ

Nay thì giống như hai ống tre khô giòn

đến thời quăng vào lửa đốt!

Cặp bắp chân của ta cũng thế

Như được uống nước no,

mịn màng và vàng óng

Lúc nào cũng giống như đôi giày được độn đầy bông

Nay thì nó gầy gò, teo tóp, xương xẩu

rất ít thịt và máu

giống như thân cây mè khô

được cắt bỏ ngoài đồng ruộng

khô nỏ, nứt nẻ

Những sợi lông chân của ta

cũng mịn màng vàng óng

Bây giờ thì như cây cỏ

trong ngôi rừng vừa bị lửa cháy!

Ôi! Cái thân, cái thân!

Các pháp hữu vi kết hợp này

Nó chịu cái già lão hủy hoại

Cái ngôi nhà được vô minh và ái dục xây nên

Nay đã cũ kỹ

cột kèo, đòn dông đã bị hư mục

Mái lợp, tấm che đã xiêu rách tả tơi

Và những lớp vôi trét tường đã đến hồi rụng rã

Cái thân vô thường này

là một cái bọc chứa đầy bất tịnh và đau khổ

Lời dạy của đức Tôn Sư

muôn đời là sự thật

Tham luyến, chấp thủ gì nữa

mà không chịu rời xa?”

Sau khi thốt lên lời thán ca về sự vô thường, biến đổi, bất tịnh của cái thân như thế, tỳ-khưu-ni Ambapālī nắm ngay tướng bất tịnh ấy, lìa tham ái, chấp thủ, đoạn trừ năm triền cái, năm thiền chi xuất hiện đi vào định thiền, tuần tự sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền chỉ trong thời gian bảy ngày. Nhờ tâm định vững chắc, kiên cố, nàng quán sát danh sắc, thấy được thực tánh, tam pháp ấn hiển lộ, chứng đắc các tầng tuệ giác, từ cạn vào sâu, chứng quả A-la-hán với đầy đủ ba minh.

Bổi hổi, bồi hồi, lạc phúc và an tịnh, nàng dùng thiên nhãn, sanh tử minh, rồi túc mạng minh chiêm quan nhìn ngắm các kiếp sống trầm luân sinh tử của mình, cảm thán, nàng thốt lên một bài kệ tán ca nữa:

“- Hóa ra ta đã có căn duyên

từ thời Phật Phussa

Ta thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ

Là chị gái của đức Hiền Trí ấy

Tuy nhiên, dẫu lắng nghe chánh pháp

dẫu bố thí cúng dường lớn lao

ta cũng chỉ biết

cầu mong có được sắc đẹp diễm kiều

Đến thời Phật Sīkhī xuất hiện

Ta sinh ra

trong kinh đô Aruṇa tuyệt vời thanh lịch

Ta xuất gia tỳ-khưu-ni trong giáo pháp này

Hôm kia,

dẫn đầu đoàn Ni chúng đông đúc

đến chùa nghe pháp đức Thế Tôn

có một vị Trưởng lão ni lậu hoặc đã tận

do hắt xì hơi nhổ ra một bãi đờm

Ta bước qua, thấy bãi đờm,

cất lời nguyền rủa

“Con kỹ nữ nào

dám nhổ cái đống bất tịnh ở đây!”

Do lời ác khẩu

phỉ nhổ bậc thánh vô nhiễm

Ta bị đọa sanh ở cõi hỏa ngục

chịu nhiều cực hình đau đớn

Sau đó bị dư nghiệp của quả báo

Ta bị làm kỹ nữ suốt mười vạn kiếp nữa

Đến thời Phật Kassapa

Ta được xuất gia tỳ-khưu-ni

với bậc Đại Chiến Thắng

Nhờ giới hạnh trong sạch

Tích lũy thiện nghiệp

Ta được hóa sanh vào cõi Tam thập tam

Đến thời Phật Sākya Muni hiện tại

Do đã chán các thai bào dơ uế

Nên tuy sanh làm người

Nhưng ta lại hóa sanh tại cây xoài

Nên được đặt tên là Ambapālī

Do nghiệp còn dư sót

Ta vẫn làm kỹ nữ

Do sắc đẹp, tài năng -

thế gian không ai sánh nổi

Nên được phong danh hoàng hậu kỹ nữ

Khi tuổi chiều bóng xế

Ta lại được nghe pháp của đức Thế Tôn

Duyên xưa trổ sanh

được xuất gia tỳ-khưu-ni

Và không mấy chốc

ta đã đạt Tam Minh

Mọi lậu hoặc, kiết sử không còn nữa

Ta thênh thang giải thoát

Ta vô ngại giải thoát

Ta chẳng còn tái sanh, luân hồi nữa

Ta đã làm trọn hảo phận sự của mình

Thực hiện đúng đắn lời dạy của đức Tôn Sư

Chẳng còn gì để làm nữa trên cõi đời

Vô lượng tri ân bậc Vô tỳ vết,

bậc Chiến thắng tam giới,

đã cho con nếm thưởng

hương vị Pháp bảo vô sanh bất diệt!”

Những đoạn kệ, nhất là bài thán ca vô thường bất hủ của tỳ-khưu-ni Ambapālī không mấy chốc được lan truyền đi khắp nơi. Một vị thánh ni, xuất thân là một kỹ nữ vừa được sanh ra trong giáo pháp của đức Thế Tôn là một biến cố trọng đại, được mọi người xưng tán, tôn trọng tụng ca, hàm tàng biết bao nhiêu ý nghĩa, khó nói cho hết được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2011(Xem: 3121)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 14948)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
14/01/2011(Xem: 8489)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
13/01/2011(Xem: 3301)
Trong các lớp bậc trung học chúng ta cũng đã biết chút ít thế nào là tương tự. Hai bài toán có thể dùng cùng một phương cách để giải thì ta gọi đó là "quá trình tương tự hoá".
11/01/2011(Xem: 8514)
Lý Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
05/01/2011(Xem: 12745)
Triết thuyết Căn Bản của PG Đại Thừa
05/01/2011(Xem: 4005)
Tài liệu về Đại sư Khuông Việt quá ít ỏi , hầu như chỉ bao gồm trong chuyện kể về Ngài của Thiền Uyển tập anh , Cho đến nay những hiểu biết về Ngài chỉ căn cứ vào đó , chưa có những phát hiện gì mới ngoài những diễn dịch , phát triển suy đoán , lắm khi mang tính cường điệu . . Qua bài này như một góp ý nhò nhặt , người viết mong rằng những nhận định vế Đại sư lừng danh của nước Việt bớt đi những suy diễn chung chung , thiếu dẫn chứng, chỉ mang tính cường điệu mà thiếu tính khoa học ; đồng thời nhấn mạnh đến nhiệm vụ chung của nhà nghiên cứu là tìm thêm tài liệu , chứng cứ để củng cố những luận điểm nhằm vinh danh vị Tăng thống đầu tiên của nước ta .
05/01/2011(Xem: 3289)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý trí mà thiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm, nhằm nêu ra một nguyên tắc tổng quát để xếp loại và đánh giá các hành động. Đạo đức học nhằm nêu định cứu cánh của mọi hành động hợp lý mà con người cố vươn tới, tức mục đích, lý tưởng của cuộc đời và tìm các phương cách giúp con người tiến tới mục đích lý tưởng ấy.
05/01/2011(Xem: 32068)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
05/01/2011(Xem: 10468)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567