Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Bố Thí - Phát Nguyện

31/07/201201:54(Xem: 5919)
07. Bố Thí - Phát Nguyện

TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ THÍ

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp

 

BỐ THÍ - PHÁT NGUYỆN

Ở đời, người ta có nhiều tiền bạc, người ta có thể mua sắm các đồ dùng mà người ta muốn. Cũng như vậy, khi người ta tạo nên phước thiện rồi, người ta có thể phát nguyện theo nguyện vọng của mình. Sự thành tựu theo nguyện vọng của mình còn tùy theo năng lực của phước thiện và thời gian sớm hoặc muộn, cũng sẽ thành tựu như ý nguyện.

Nguyện vọng của mỗi người có phần khác nhau, cho nên khi tạo nên phước thiện cũng khác nhau. Có hai loại phước thiện:

- Phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới (vaṭṭagāmikusala).
-
Phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới (vivaṭṭupanissitakusala).

Phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới như thế nào?

Một số người có tâm tham muốn ở trong đời, tạo nên phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền định,... cầu mong được rằng:

Xin cho tôi được tái sanh làm người giàu sang phú quý, có danh, có phận, có chức, có quyền; làm Đức Vua trị vì một nước, hoặc làm Đức Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ.

Xin cho tôi được tái sanh lên cõi trời, sẽ là chư thiên có nhiều oai lực, hoặc là Đức Vua trong cõi trời ấy,...

Tùy theo mỗi phước thiện mà cho quả báu được thành tựu trong cõi người, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc giới. Đến khi hết tuổi thọ trong cõi nào rồi, do nghiệp cho quả tái sanh trở lại kiếp sau, tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo, cứ quanh quẩn trong vòng tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Như vậy, gọi là phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới.

Phước thiện này không trở thành pháp hạnh ba la mậtnhư: bố thí ba la mật, giữ giới ba la mật,... vì không phát nguyện giải thoát khổ sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài.

Phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới như thế nào?

Một số bậc Thiện trí có trí tuệ sáng suốt nhận thức rõ khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, nên khi tạo phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... chỉ mong làm nơi nương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Bậc Thiện trí này không cầu mong sẽ trở thành người giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng,... trong cõi người; cũng không cầu mong sự an lạc trong cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc giới. Họ chỉ có một nguyện vọng nương nhờ phước thiện này dẫn dắt đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, là pháp diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân mà thôi. Phước thiện này trở thành pháp hạnh ba la mậtnhư: bố thí ba la mật, giữ giới ba la mật,... Phước thiện này làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.

Lời Phát Nguyện

Muốn cho phước thiện của mình làm duyên lành nương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, bậc Thiện trí ấy cần phải có lời phát nguyện:

Trong Chú giải có dạy rằng:

"Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu".

[Chú giải Saṃyuttanikāya, phần Nidānavagga, kinh Paṭipadā-suttavaṇṇanā. Chú giải Aṅguttaranikāya.]

"Cầu mong phước thiện bố thí này của tôi, làm duyên lành dẫn dắt đến sự chứng ngộ Niết Bàn, chứng đắc A-ra-hán Thánh Đạo diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân".

Đây là lời phát nguyện chung cho những người muốn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Phát nguyện riêng của mỗi Đức Bồ Tát

Đức Bồ Tát có ba bậc, mỗi bậc có sự phát nguyện khác nhau:

1- Bậc Thanh Văn Bồ Tát (Sāvakabodhisatta)phát nguyện trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật, có 3 bậc:

Bậc Thánh tối thượng Thanh Văn (Aggasāvaka).
Bậc Thánh đại Thanh Văn (Mahāsāvaka).
Bậc Thánh Thanh Văn (Pakatisāvaka).

2- Bậc Độc Giác Bồ Tát (Paccekabodhisatta) phát nguyện trở thành Đức Phật Độc Giác, có 3 bậc:

Bậc Độc Giác Phật có trí tuệ ưu việt (paññādhika).
Bậc Độc Giác Phật có đức tin ưu việt (saddhādhika).
Bậc Độc Giác Phật có tinh tấn ưu việt (vīriyādhika).

3- Bậc Toàn Giác Bồ Tát hoặc Bậc Chánh Đẳng Giác Bồ Tát (Sammāsambodhisatta)phát nguyện trở thành bậc Toàn Giác Phật hoặc Bậc Chánh Đẳng Giác Phật, có 3 bậc:

Bậc Toàn Giác có trí tuệ ưu việt (paññādhika).
Bậc Toàn Giác có đức tin ưu việt (saddhādhika).
Bậc Toàn Giác có tinh tấn ưu việt (vīriyadhika).

Tất cả các bậc Bồ Tát khi tạo 10 pháp hạnh ba la mật, phước thiện ba la mật nào dầu nhỏ hoặc lớn, dầu ít hoặc nhiều đều phát nguyện mong trở thành bậc nào theo nguyện vọng của mình.

Ví dụ:

Đức Bồ Tát đạo sĩ Akitti, tiền thân của Đức Phật Gotama, sống trong rừng dùng lá kāra làm vật thực hằng ngày. Đức vua trời Sakka (Đế Thích) nhìn thấy Đức Bồ Tát đạo sĩ có hạnh cao thượng khó có ai thực hành được, muốn biết Ngài thực hành phạm hạnh như vậy có nguyện vọng gì. Đức vua trời Sakka biến hóa thành Bà la môn khất sĩ hiện xuống đi khất thực trước Đức Bồ Tát đạo sĩ. Đức Bồ Tát đạo sĩ nhìn thấy Bà la môn khất sĩ, tâm vô cùng hoan hỉ đem tất cả nắm lá kāra được luộc chín làm phước thiện bố thí đến Bà la môn khất sĩ, còn Đức Bồ Tát đạo sĩ chỉ uống nước để sống qua ngày ấy.

Đức Bồ Tát đạo sĩ phát nguyện rằng:

"Tena dānena na lābhasakkarasilokaṃ, na Cakkavattisampattiṃ, na Sakkasampattiṃ, na Brahmasampattiṃ, na Sāvakabodhiṃ, na Paccekabodhiṃ patthemi. Api ca idaṃ me dānaṃ Sabbaññutañāṇassa paccayo hotu". [Bộ Cariyāpiṭakaṭṭhakathā , pháp hạnh của Đức Bồ Tát đạo sĩ Akitti. Bộ Jātaka, truyện Akittijātaka.]

"Do năng lực phước thiện bố thí này, bần đạo không cầu mong danh lợi, không cầu mong ngôi vị Đức Chuyển luân thánh vương, ngôi vị vua trời Sakka, ngôi vị Phạm thiên, cũng không cầu mong trở thành bậc Thánh Thanh Văn, bậc Độc Giác Phật; mà sự thật, phước thiện bố thí này của tôi, chỉ mong làm duyên lành để trở thành Đức Phật Toàn Tri Diệu Giác mà thôi".

Đó là lời phát nguyện của của Đức Toàn Giác Bồ Tát cầu mong trở thành Đức Phật Toàn Giác, hoặc Bậc Chánh Đẳng Giác Phật.

Cho nên, mỗi Đức Bồ Tát có lời phát nguyện theo nguyện vọng riêng của mình.

Đức Độc Giác Bồ Tát chỉ phát nguyện muốn trở thành Đức Phật Độc Giác, ngoài ra không còn mong muốn địa vị nào khác.

Bậc tối thượng Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh tối thượng Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Bậc đại Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Bậc Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trở thành bậc Thánh Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Phước thiện nào, như giữ giới, bố thí, hành thiền định, hành thiền tuệ,... xong rồi phát nguyện cầu mong chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, pháp diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân.

Để đạt đến nguyện vọng trở thành Đức Phật Toàn Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh tối thượng Thanh Văn, hoặc bậc Thánh đại Thanh Văn, hoặc bậc Thánh Thanh Văn, phước thiện ấy gọi là phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới(vivaṭṭupanissitakusala).

Tính chất ưu việt của Vivaṭṭupanissitakusala

Chủ nhân phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này ngày nào chưa đạt đến mục đích cứu cánh cuối cùng, chứng ngộ Niết Bàn theo nguyện vọng riêng của mình, ngày ấy chủ nhân vẫn hưởng được quả báu cao quý trong cõi người, trong cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới.

- Do năng lực phước thiện này cho quả, nếu tái sanh làm người, thì sẽ là người giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, có khi làm vua một nước lớn, có khi là Đức Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ. Nhưng dầu ở địa vị nào, người chủ nhân của phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này không say đắm, không dính mắc trong của cải, sự nghiệp ấy. Khi có cơ hội, sẵn sàng từ bỏ tất cả xuất gia trở thành đạo sĩ trong thời kỳ không có Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc xuất gia trở thành Tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian.

Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

- Do năng lực phước thiện này cho quả, nếu tái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, thì chủ nhân của phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này không chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà nguyện từ bỏ cõi trời, liền tái sanh xuống làm người, để có cơ hội tạo nhiều pháp hạnh ba la mật, để cho mau chóng đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn theo nguyện vọng của mình.

- Nếu chủ nhân ấy tái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, không bao giờ chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà chủ nhân chư thiên ấy nguyện chết trước tuổi thọ, xuống tái sanh làm người để có cơ hội tốt tạo được nhiều pháp hạnh ba la mật, để mau chóng chứng đạt mục đích cứu cánh cuối cùng của mình.

Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

Trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc giáo pháp của Ngài đang lưu truyền, chủ nhân của phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này, phát sanh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, xin quy y Tam bảo trở thành người cận sự nam (hoặc cận sự nữ); hoặc từ bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành giới trong sạch đầy đủ, tiến hành thiền định chứng đắc các bậc thiền sắc giới, vô sắc giới không phải để hưởng quả an lạc của các bậc thiền ấy trong kiếp hiện tại và kiếp sau trong cõi trời phạm thiền sắc giới, vô sắc giưói; mà chỉ dùng bậc thiền ấy làm nền tảng tiến hành thiền tuệ, để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn tuỳ theo trí tuệ và ba la mật của mình.

Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

Tóm lại,

Phước thiện vaṭṭagāmikusala là con đường vòng quanh trong tam giới, không giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Phước thiện vivaṭṭupanissitakusala là con đường thẳng đến Niết Bàn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Phát Nguyện – Thành Tựu

Bố thí và phát nguyện thường liên quan với nhau, sau khi làm phước thiện, người ta thường có lời phát nguyện, cầu mong do năng lực phước thiện ấy làm nhân duyên đưa đến sự thành tựu đúng theo nguyện vọng của mình.

Sự phát nguyện có thành tựu hay không thành tựu, thành tựu sớm hay muộn, nhanh hay chậm còn tuỳ theo thí chủ.

Nếu thí chủ là người có giới đức trong sạch,thì sự phát nguyện có thể thành tựu theo năng lực của phước thiện ấy.

Nếu thí chủ là người không có giới trong sạch,thì sự phát nguyện không thể thành tựu được; bởi vì, người không có giới hoặc giới không trong sạch, sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh vào một trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).

Tìm hiểu bài kinh Dānūppattisutta [Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Dānūppattisutta]. Trong bài kinh này Đức Phật dạy:

Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này làm phước thiện bố thí như cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở và đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy bố thí rồi phát nguyện, họ nhìn thấy vua chúa có quyền, Bà la môn giàu sang phú quý, phú hộ hưởng thụ có đầy đủ ngũ trần, người ấy phát nguyện, mong ước rằng: "Sau khi chết rồi, cầu mong kiếp sau, tôi sẽ trở thành vị vua chúa có quyền thế, hoặc Bà la môn giàu sang phú quý, hoặc đại phú hộ". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả tái sanh trong dòng vua chúa, hoặc trong dòng Bà la môn giàu sang phú quý, hoặc trong gia đình đại phú hộ.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, hay người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

- Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này, làm phước thiện bố thí như: cơm, nước, vải,... và đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy bố thí rồi phát nguyện, vì họ nghe rằng: "Chư thiên cõi trời Tứ đại thiên vương có tuổi thọ sống lâu, có sắc đẹp, có sự an lạc trong cõi trời ấy". Người ấy phát nguyện, mong ước rằng: "sau khi chết rồi, cầu mong kiếp sau, tôi sẽ là chư thiên trong cõi Tứ đại thiên vương". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả tái sanh làm chư thiên cõi Tứ đại thiên vương.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

- Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này, làm phước thiện bố thí như: cơm, nước, vải...đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy bố thí rồi phát nguyện vì: họ nghe rằng "chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên... Chư thiên trong cõi Dạ ma thiên... Chư thiên trong cõi Đâu suất đà thiên... Chư thiên trong cõi Hoá lạc thiên... Chư thiên trong cõi Tha hóa tự tại thiên có tuổi thọ sống lâu, sắc đẹp tuyệt vời, có sự an lạc tuyệt vời trong cõi trời". Người ấy phát nguyện mong ước rằng: "Sau khi chết rồi, cầu mong kiếp sau tôi sẽ là chư thiên trong cõi Tam thập tâm thiên,... cõi Đâu suất đà thiên,... cõi Hoá lạc thiên... Cõi Tha hoá tự tại thiên". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả tái sanh làm chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên..., cõi Dạ ma thiên..., cõi Đâu xuất đà thiên..., cõi Hoá lạc thiên..., cõi Tha hóa tự tại thiên.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

- Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này bố thí như cơm, nước, vải... đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy bố thí rồi phát nguyện vì họ nghe rằng: "Phạm thiên trong cõi trời sắc giới có tuổi thọ sống lâu, có sự an lạc tuyệt vời hơn cõi trời dục giới". Người ấy phát nguyện mong ước rằng: "sau khi chết, cầu mong kiếp sau tôi sẽ là phạm thiên trong cõi trời sắc giới". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm phát triển theo pháp hành thiền định, không phát triển theo pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do nhờ có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới (có chứng đắc bậc thiền sắc giới) mà thôi, không nói đến người không có giới, phá giới; nói đến tâm không còn tham dục trong ngũ trần, do diệt được tham ái trong ngũ trần, không nói đến tâm còn có tham ái trong ngũ trần.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do tâm trong sạch, không tham ái trong ngũ trần...

Qua bài kinh này, để hiểu rõ lời phát nguyện chỉ được thành tựu đối với người có giới đức trong sạch mà thôi, không thành tựu đối với người không có giới, phá giới; là vì người không có giới, người phá giới sau khi chết, do ác nghiệp cho quả chắc chắn phải sa vào một trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).Cho nên, phước thiện bố thí không có cơ hội dẫn dắt đến sự thành tựu theo điều phát nguyện.

Tuổi thọ, sắc đẹp, sự an lạc mỗi cõi trời dục giới khác nhau. Cõi trời dục giới tầng cao có tuổi thọ gấp đôi cõi trời dục giới tầng thấp.

- Tuổi thọ cõi Tứ đại thiên vương có 500 năm, bằng 9 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 50 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ cõi Tam thập tam thiên có 1.000 năm, bằng 36 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 100 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ trong cõi Dạ ma thiên có 2.000 năm, bằng 144 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 200 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ cõi Đâu xuất đà thiên có 4.000 năm, bằng 576 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 400 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ trong cõi Hoá lạc thiên có 8.000 năm, bằng 2.304 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 800 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ trong cõi Tha hoá tự tại thiên có 16.000 năm, bằng 9.216 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 1.600 năm trong cõi người.

Ngoài tuổi thọ ra, còn sắc đẹp, sự an lạc, tiếng tăm, quyền lực, sắc, thinh, hương, vị, xúc tuyệt vời ở mỗi tầng trời cao tăng gấp bội tầng trời thấp.

Quả báu của phước thiện bố thí thuộc dục giới thiện nghiệp, nên chỉ có khả năng cho quả trong cõi người và 6 cõi trời dục giới mà thôi, không có khả năng cho quả trong cõi trời sắc giới. Nhưng trong bài kinh Đức Phật có đề cập đến sự thành tựu nguyện vọng trở thành phạm thiên trong cõi trời sắc giới, điều này nên hiểu rằng: nhờ phước thiện bố thí làm nhân duyên hỗ trợ cho thí chủ thuận lợi trong sự tiến hành thiền định để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc. Chính sắc giới thiện nghiệp, vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên, vô sắc giới phạm thiên (không phải phước thiện bố thí);và cũng chính nhờ phước thiện bố thí làm duyên hỗ trợ cho thí chủ thuận lợi trong sự tiến hành thiền tuệ để chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả trở thành bậc Thánh nhân.

Năng Lực Lời Phát Nguyện

Lời phát nguyện có năng lực đối với người tạo được phước thiện nào khó tạo, thì phước thiện ấy có nhiều năng lực. Khi phước thiện có nhiều năng lực, thì lời phát nguyện mới thành tựu được dễ dàng.

Như tích nàng Ummādandī [Bộ Jātaka, truyện Ummādandījātaka] được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức vua Sivi trị vì xứ Sivi, ngự ở kinh thành Ariṭṭha [Đức vua Sivi là Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama]. Trong kinh thành, một phú hộ Tiriṭivaccha có người con gái vô cùng xinh đẹp như thiên nữ tên là Ummādandī. Năm cô lên 16 tuổi có sắc đẹp mê hồn, lạ thường hơn hẳn các cô gái khác, cô đẹp như thiên nữ tuyệt trần, những người đàn ông nào nhìn thấy cô đều cảm thấy mê hồn, đến mức điên cuồng, mất trí như người say – say bởi tham ái.

Ông phú hộ Tiriṭivaccha đến yết kiến Đức vua Sivi tâu rằng:

- Tâu Hoàng thượng, Itthiratanā:đàn bà báuxứng đáng với Hoàng thượng đã sanh trong gia đình của tiện dân. Xin Hoàng thượng phái nhóm Bà la môn đến xem tướng con gái của tiện dân, rồi tùy ý của Hoàng thượng phán xét.

Đức vua chuẩn tấu, rồi truyền lệnh phái các Bà la môn đến ngôi biệt thự của ông phú hộ. Nhóm Bà la môn được đón tiếp trọng thể, mời thưởng thức món cơm pāyāsa: cơm đặc biệt nấu bằng sữa tươi.

Khi ấy, cô Ummādandī trang sức lộng lẫy toàn những đồ nữ trang quý giá ra chào hỏi nhóm Bà la môn ấy. Vừa nhìn thấy cô, tất cả họ đều bị mê hồn, say mê điên cuồng không còn biết mình nữa. Đang khi dùng vật thực, có người cầm nắm cơm đặt trên đầu, tưởng rằng mình dùng cơm; có người cầm nắm cơm nhét vào nách, có người đấm vào vách tường... tất cả họ đều mê hồn đến mức trở thành người điên cuồng mất trí, không còn biết mình nữa.

Cô Ummādandī nhìn thấy nhóm Bà la môn như vậy nói rằng:

- Ta tưởng nhóm Bà la môn này đến xem tướng của ta, bây giờ nhóm họ như người điên cuồng, không còn biết gì nữa. Này các gia nhân, hãy lôi cổ nhóm Bà la môn này ra khỏi ngôi biệt thự.

Nhóm Bà la môn đờ đẫn như người mất hồn, bị tống ra khỏi nhà đến khi hoàn hồn tỉnh lại cảm thấy xấu hổ và tức giận cô Ummādandī, nên khi trở về yết kiến Đức vua, cả nhóm Bà la môn đồng tâu dối rằng:

Tâu bệ hạ, người đàn bà ấy là người bất hạnh, không nên rước về cung điện.

Cô Ummādandī biết chuyện như vậy, nên nghĩ rằng: "Đức vua không rước ta về cung vì tưởng rằng ta là người bất hạnh. Gọi là người bất hạnh, thì chắc chắn làm sao có được địa vị như ta. Có cơ hội nào ta sẽ yết kiến Đức vua rồi sẽ rõ".

Về sau phụ thân của cô, ông phú hộ Tiriṭivaccha đem gả cô cho vị quan thừa tướng Abhipāraka, là vị quan thân thiết nhất, tín cẩn nhất của Đức vua Sivi, cô trở thành người yêu quý nhất của quan thừa tướng.

Nhân dịp dân chúng trong kinh thành tổ chức lễ lớn vui chơi ca hát nhảy múa hàng năm vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch). Trước khi đi chầu Đức vua, vị quan Thừa tướng gọi phu nhân căn dặn rằng:

- Này Ummādandī em yêu quý! Hôm nay, đầu hôm, trăng rằm sáng tỏ, có lễ lớn, dân chúng ca hát nhảy múa vui chơi, Đức vua sẽ ngự đi dạo quanh kinh thành, Người sẽ ngự ngang biệt thự của ta trước tiên. Em đừng có xuất hiện để cho Đức vua nhìn thấy, nếu Đức vua nhìn thấy em, người sẽ bị mê hồn mất trí.

Cô Ummādandī nghe lời căn dặn của phu quân, nhưng lại nghĩ đây là cơ hội tốt để Đức vua nhìn thấy ta, nên khi vị quan thừa tướng đi rồi, cô gọi nữ tỳ bảo rằng:

- Khi nào Đức vua đến cổng biệt thự ta, ngươi hãy nói cho ta biết nhé!

Hôm ấy, mặt trời lặn, mặt trăng rằm soi sáng trên bầu trời, trong kinh thành trang hoàng lộng lẫy, đèn thắp sáng ngời mọi phương, kinh thành đẹp đẽ như cõi thiên cung.

Đức vua Sivi trang phục theo vương triều, ngự trên chiếc xe ngựa cao quý, theo sau có đoàn hộ tống ngự ra khỏi cung điện, sẽ đi vòng kinh thành, đến cổng biệt thự của vị quan thừa tướng Abhipāraka trước tiên, biệt thự này có tường bằng cẩm thạch bao chung quanh, cổng thành có đài cao trang hoàng lộng lẫy đáng xem.

Khi ấy, nữ tỳ thưa với cô chủ Ummādandī rằng Đức vua đang ngự đến, cô liền bảo nữ tỳ cầm mâm hoa, còn mình đứng tựa trên cửa sổ lâu đài với dáng đứng đẹp, tay cầm hoa rải xuống Đức vua. Đức vua ngẩng đầu nhìn thấy nàng, ngay khi ấy, Đức vua phát sanh tâm say mê, cơn say do phiền não làm mê hồn mất trí, không còn biết ngôi biệt thự này của vị quan thừa tướng Abhipāraka thân tín nhất của mình. Đức vua truyền hỏi người đánh xe ngựa rằng:

- Này Sunanda, biệt thự này của ai, mà vòng thành bằng cẩm thạch màu vàng?

- Ai đứng hiện ra ở trên kia như một ngôi sao chiếu sáng trong hư không, hay trên đỉnh núi?

- Này Sunanda! Người đàn bà ấy là con của người ai? Chưa thuộc về người nào có phải không? Nàng chưa có chồng phải không? Hãy trả lời ngay cho ta rõ.

Người đánh xe ngựa tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, hạ thần biết rõ người đàn bà ấy là con của phú hộ Tiriṭivaccha, nàng có chồng rồi. Chồng của nàng là quan thừa tướng Abhipāraka thân tín nhất của bệ hạ, ngày đêm lo việc triều chính của bệ hạ.

Tâu bệ hạ, nàng là phu nhân của quan thừa tướng Abhipāraka, tên của nàng là Ummādandī.

Đức vua tán dương ca tụng rằng:

- Này các ngươi, tên gọi Ummādandī, mà cha mẹ đặt cho nàng thật đúng nghĩa. Khi ta nhìn thấy nàng, nàng lại nhìn thấy ta, làm cho ta say mê như người điên cuồng, mất trí.

Biết Đức vua không còn bình tĩnh nữa, nên nàng Ummādandī đóng cửa sổ trở về phòng riêng.

Kể từ khi nhìn thấy nàng Ummādandī, Đức vua cảm thấy không còn hứng thú đi dạo quanh kinh thành nữa, truyền lệnh cho người đánh xe giá hồi cung, ngự lên lâu đài vào phòng nằm mơ mộng đến nàng Ummādandī, nói lảm nhảm một mình như nguời mất trí, lẩm bẩm rằng:

- Nàng xinh đẹp quá! Nàng xinh đẹp quá! Nàng nhìn thấy ta như đã hớp hồn ta rồi! Nếu đức vua trời Sakka ban ân huệ cho ta, ta chỉ muốn được hưởng một ân huệ, đó là được nàng Ummādandī ôm ấp ta với đôi cánh tay mềm mại của nàng. Quan thừa tướng Abhipāraka được ái ân cùng nàng rồi, xin nhường cho vua Sivi được ái ân cùng nàng với...

Biết chuyện này, quan thừa tướng Abhipāraka vào yết kiến Đức vua, xin dâng nàng Ummādandī lên Đức vua.

Khi ấy, Đức vua hồi tâm tỉnh trí lại biết mình có ý nghĩ sai lầm đầy tội lỗi, cảm thấy vô cùng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, một mực từ chối không thể chấp nhận nàng Ummādandī, phu nhân của quan thừa tướng thân tín nhất của mình.

Từ đó về sau, Đức vua Bồ Tát Sivi hành theo thiện pháp, thiên hạ được an lành thịnh vượng.

Thử hỏi, do nguyên nhân nào, sắc đẹp của nàng Ummādandī lại làm cho những người đàn ông, khi nhìn thấy nàng, lại bị say mê, điên cuồng, mất trí như vậy?

Trong quá khứ, vương quốc Bārāṇasī, tiền kiếp của cô Ummādandī sanh trong một gia đình nghèo khó, vào ngày lễ hội, cô nhìn thấy những cô gái khác cùng trang lứa ăn mặc y phục bằng tấm vải choàng màu đỏ xinh đẹp, trang sức lộng lẫy; khiến cô thèm được mặc tấm vải choàng màu đỏkia, cô xin cha mẹ mua cho cô tấm vải ấy. Cha mẹ cô an ủi cô rằng:

- Này con yêu quý! Gia đình ta nghèo khó, làm sao mua được tấm vải choàng như vậy hỡi con!

- Thưa cha mẹ! Nếu vậy, xin phép cha mẹ cho con đi làm thuê ở mướn một gia đình giàu có nào đó, qua một thời gian, người chủ nhà thấy con làm được việc sẽ cho con tấm vải ấy.

Được cha mẹ cho phép, cô gái đến xin làm thuê ở mướn cho một gia đình giàu có, cô thưa với người chủ rằng:

- Thưa ông bà chủ, con xin ở đây làm công, chỉ mong được một tấm vải choàng tốt màu đỏ.

Người chủ đặt điều kiện với cô rằng:

- Nếu ngươi chịu ở đây, làm việc giỏi suốt ba năm, xét thấy được, chúng ta sẽ cho ngươi tấm vải choàng mà ngươi ao ước.

Cô gái vô cùng hoan hỉ, chấp thuận điều kiện của chủ, ngày đêm siêng năng cần mẫn hoàn thành tốt mọi công việc mà người chủ giao phó. Vì vậy, cô làm công chưa đủ ba năm, người chủ quyết định cho cô tấm vải choàng cùng với các tấm vải khác, bảo cô rằng:

- Hôm nay, ngươi đi tắm rửa sạch sẽ với nhóm bạn gái rồi mặc tấm vải choàng này xem!

Cô sung sướng nhận tấm vải choàng, đã thoả lòng ao ước, cám ơn ông bà chủ rồi đi tắm với nhóm bạn gái, cô đặt tấm vải trên bờ, nghĩ rằng: xuống sông tắm xong, ta sẽ mặc tấm vải choàng này, mà ta đã làm công không nề vất vả khổ cực ngày đêm suốt thời gian qua.

Ngay khi ấy, một vị Đại Đức là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Kassapa bị mất trộm y tất cả, nên Ngài mặc lá y bằng những cành cây nhỏ (sākhābhaṇgaṃ) kết lại với nhau, đi ngang qua nơi ấy. Cô nhìn thấy Ngài nghĩ rằng: vị Đại Đức này bị mất trộm y hết, còn ta có được một tấm vải choàng này thật khó khăn vất vả, bởi vì tiền kiếp trong quá khứ ta không làm phước thiện bố thí. Bây giờ ta sẽ làm phước thiện bố thí một nửa tấm vải choàng đến Ngài Đại Đức.Nghĩ xong, cô vội vã bước lên bờ, mặc y phục cũ xong bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại Đức, xin thỉnh Ngài dừng lại một giây lát.

Cô đến đảnh lễ Ngài rồi ngồi tại nơi ấy xé tấm vải thành hai mảnh, cô cung kính dâng một mảnh đến Ngài. Ngài Đại Đức tạm lánh vào chỗ kín thay bỏ tấm y cũ, bằng mảnh vải choàng ấy, mặc nghiêm chỉnh xong bước ra; bây giờ cô nhìn thấy Ngài Đại Đức mặc mảnh vải vào như hào quang sáng ngời, một thứ ánh sáng mặt trời mát dịu, làm cho cô vô cùng hoan hỉ dâng thêm mảnh vải còn lại đến Ngài Đại Đức rồi phát nguyện rằng:

- Kính bạch Ngài Đại Đức, tử sanh luân hồi, kiếp nào con cũng sẽ là người con gái xinh đẹp nhất, làm cho người đàn ông nào khi nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, điên cuồng mất trí, không còn biết mình nữa; và không có một người đàn bà nào xinh đẹp hơn con.

Đó là lời phát nguyện trong tiền kiếp của cô Ummādandī.

Cô gái ấy sau khi chết, do năng lực phước thiện bố thí cho quả, khi thì tái sanh làm thiên nữ cõi trời dục giới, khi thì tái sanh làm người nữ cõi người, tái sanh kiếp nào, dầu là thiên nữ hoặc người nữ đều có sắc đẹp tuyệt vời, không một ai sánh kịp.

Đến kiếp tái sanh làm người nữ trong gia đình phú hộ Tiriṭivaccha đặt tên cô là Ummādandī, có nghĩa cô có sắc đẹp làm mê hồn. Những người đàn ông nhìn thấy cô, họ đều say mê, điên cuồng, mất trí như người điên, bởi do năng lực lời phát nguyên của cô ở tiền kiếp.

Lời phát nguyện của cô được thành tựu cho đến kiếp cuối cùng.

Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, kiếp chót hậu thân của cô Ummādandī, do phước thiện cho quả tái sanh làm con gái của gia đình phú hộ xứ Sāvatthi, xinh đẹp như đoá hoa sen, nên đặt tên cô là Uppalavaṇṇā. Khi cô trưởng thành, thân phụ cô cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni tiến hành thieàn tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Đạo A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng Tứ tuệ phân tích, Lục thông.

Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā là bậc Thánh nữ tối thượng Thanh Văn đặc biệt xuất sắc nhất về thần thông trong hàng Thánh nữ Thanh Văn.

Những nhân vật trong tích tiền thân Ummādandī-jātaka này, kiếp hiện tại cũng là kiếp chót như sau:

Cô Ummādandī nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā.
Người đánh xe ngựa Sunanda nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda.
Quan thừa tướng Abhipāraka nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sāriputta.
Đức vua Sivi nay kiếp hiện tại chính là Đức Phật Gotama.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12062)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14926)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
22/08/2021(Xem: 3444)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 4174)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16504)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12477)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7763)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19938)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11599)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9072)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567