Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Những lời cuối cùng của Đức Phật

15/04/201214:23(Xem: 8750)
08. Những lời cuối cùng của Đức Phật
KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO
Hoang Phong biên soạn và dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2012

NHỮNG LỜI CUỐI CÙNG CỦA PHẬT

phat-nietban-01Dưới đây là tóm tắtnhững lời dặn dò cuối cùng của Phật. Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trướcvà đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-Nan-Đàtập họp các đệ tử để nghe giảng và thông báo trước sự tịch diệt của mình. Lúcấy Phật đã 80 tuổi. Trong những tháng cuối cùng, Phật đã gầy còm và mệt mỏi,nhưng vẫn đi thuyết giảng như thường, tuy không còn đi xa được nữa. A-Nan-Đàxin Phật hãy tĩnh dưỡng trong những ngày còn lại, nhưng Ngài khoát đi và dạyrằng :

« Thân ta tuy cókém mạnh khoẻ, nhưng lòng từ bi của ta, trí sáng suốt của ta không kém sút. Tacòn tại thế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích ».

Trong một khu rừng cạnhthị trấn Câu-thi-na (Kusinaga, còn viết là Kuçinagara), ngày nay là một thịtrấn nhỏ tên là Kasia, cách 50 cây số về phía đông tỉnh Gorakhpur, và cách 150kilomét về phía bắc-đông-bắc Varanasi (Bénarès), Phật nằm nghỉ giữa hai gốc câysa-la. Ngài tự gấp áo cà sa làm bốn, rồi nằm nghiêng về phía tay phải, đầuhướng về phía bắc, mặt hướng về phía tây, hai chân duỗi thẳng, chân này gác lênchân kia. Sau đó Phật ngỏ những lời cuối cùng với các đệ tử để nhắc lại một lầnnữa tầm quan trọng của Đạo Pháp. Phật nhắc nhở các đệ tử phải hiểu rằng vị thầycủa họ không phải là một nhân vật nào cả, dù đó là Phật, vị thầy đích thực củahọ chính là Đạo Pháp. Phật cất tiếng và nhắn nhủ các đệ tử đang ngồi chungquanh Ngài như thế này :

« Này các đồđệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chínhsức mạnh của các con; không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Những lời giảng huấncủa ta sẽ làm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làm nơi nương tựa cho các con;không cần phải lệ thuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa.

« Hãy nhìn vào thân xáccác con, các con sẽ thấy cái thân xác đó ô uế biết chừng nào. Khi các con hiểuđược rằng lạc thú lẫn đớn đau của thân xác cũng chỉ là cội nguồn chung của khổđau, khi hiểu được như thế, các con sẽ không thể nào tự buông lỏng cho dục vọngchi phối các con.

« Hãy nhìn vào tâm thứccác con, các con sẽ thấy cái tâm thức đó biến dạng không ngừng. Vì thế các consẽ không thể nào tự buông rơi vào chính những ảo giác của tâm thức, để rồi tựduy trì những kiêu căng và ích kỷ do tâm thức tạo ra, nhất là khi các con đãhiểu rằng những xúc cảm đó nhất định chỉ mang đến khổ đau mà thôi.

« Hãy nhìn vào tất cảcác vật thể chung quanh xem có vật thể nào trường tồn hay chăng? Có vật thể nàokhông phải là những cấu hợp sinh ra hay không? Tất cả sẽ gãy nát, tan rã vàphân tán. Các con chớ sợ hãi khi nhận thấy khổ đau cùng khắp mọi nơi, hãynoi theo những lời giáo huấn của ta, kể cả sau khi ta đã tịch diệt. Như thế cáccon sẽ loại bỏ được khổ đau. Thật vậy, cứ noi theo những lời giáo huấn của ta,rồi nhất định các con sẽ trở thành những đồ đệ thật sự của ta.

« Này các đồ đệ của ta,những lời giáo huấn ta giảng cho các con, các con đừng bao giờ quên, đừng baogiờ để cho mai một đi. Phải bảo tồn những lời giáo huấn ấy, đem ra nghiên cứuvà thực hành. Nếu theo đúng những lời giáo huấn ấy, các con sẽ đạt được anvui.

« Những gì hệ trọng nhấttrong những lời giáo huấn của ta là các con phải kiểm soát được tâm thức cáccon. Hãy gạt bỏ mọi thèm muốn và giữ cho thân xác đứng thẳng, tâm thức tinhkhiết và ngôn từ chân thật. Nếu các con biết tự nhắc nhở là cuộc sống của cáccon chỉ là tạm bợ, các con sẽ đủ khả năng loại bỏ mọi thèm khát và hung dữ đưađến khổ đau.

« Nếu các con nhận rađược là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc vào ham muốn,các con phải gạt bỏ ngay sự ham muốn và chận đứng sự cám dỗ đó. Các con phảilàm chủ được tâm thức các con.

Tâm thức có khả năngbiến một con người thành một vị Phật hay một con thú. Khi rơi vào sự lầm lẫn,ta có thể trở thành quỷ sứ, nhưng khi Giác ngộ ta sẽ thành Phật. Vì thế, cáccon phải kiểm soát lấy tâm thức các con và không đi lạc ra ngoài ChánhĐạo.

« Để có thể giữđúng như lời giáo huấn của ta, các con hãy kính trọng lẫn nhau và đừng cãi vã.Đừng bắt chước như nước với dầu xô đẩy lẫn nhau; hãy bắt chước như nước vớisữa, có thể hoàn toàn hòa lẫn vào nhau.

Hãy cùng nghiên cứu vớinhau, cùng giảng giải cho nhau, thực hành với nhau. Không nên phí phạm tâm thứccủa các con và thời giờ của các con trong sự cãi vả hay lười biếng. Hãy hânhoan đón nhận hoa thơm của Giác ngộ vào lúc ra hoa và hái lấy quả ngọt trênĐường Ngay Thật.

« Những lời giáo huấn taban cho các con là do nơi kinh nghiệm của chính ta, và chính ta đã noi theo conđường đó. Các con nên tuân theo những lời giáo huấn ấy và giữ đúng như thế dùphải gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Nếu các con xao lãng, có nghĩa là các con chưahề gặp được ta, các con thật sự còn đang ở một nơi nào đó thật xa, dù cho tronglúc này đây các con đang ngồi bên cạnh ta cũng vậy. Nhưng nếu ngược lại, cáccon chấp nhận và đem ra thực hành những lời giáo huấn của ta, thì dù cho cáccon ở thật xa trong một chốn tận cùng của thế giới, nhưng cũng giống như cáccon đang ở bên cạnh ta trong lúc này.

« Hỡi các đồ đệ, phútcuối cùng của ta đã gần kề, phút xa lìa giữa ta và các con không còn bao lâunữa. Tuy nhiên các con không nên than khóc. Sự sống là một sự đổi thay khôngngừng và không có gì cản trở được sự tan rã của xác thân. Cái sự thực đó, tađang chứng minh cho các con thấy ngay trên thân xác của ta, thân xác ta sẽ tanrã như một cỗ xe hư nát. Đừng than khóc một cách vô ích, trái lại các con phảihân hoan khi nhận ra được cái quy luật biến đổi ấy và hiểu được rằng sự sốngcủa con người chỉ là trống không mà thôi. Đừng cố gắng duy trì cái khát vọngphi lý, mong muốn những gì tạm bợ phải nhất định trở thành trường tồn.

« Con quỷ của những dụcvọng thế tục luôn luôn tìm cách đánh lừa tâm thức các con. Nếu có một con rắnđộc trong phòng, các con sẽ không thể nào ngủ yên nếu chưa đuổi được nó rangoài. Các con phải cắt đứt những mối giây ràng buộc của thèm khát thế tục vàrứt bỏ những mối giây đó như các con đã đuổi bỏ con rắn độc ra khỏi phòng. Cáccon phải bảo vệ thật cẩn thận tâm thức các con.

« Này các môn đệ của ta,giây phút cuối cùng của ta đã đến, tuy vậy các con phải hiểu rằng cái chết chỉlà sự tan rã của xác thân vật chất mà thôi. Thân xác được cha mẹ sinh ra, nólớn lên nhờ thức ăn, nó không có cách gì tránh khỏi bịnh tật và cái chết. Mộtvị Phật đích thực không mang thân xác con người, mà vỏn vẹn chỉ là sự Giác ngộ.Chỉ có sự Giác Ngộ mà thôi. Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí tuệ củaGiác ngộ sẽ trường tồn vô tận trong thực thể của Đạo Pháp, trên con đường tutập Đạo Pháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác ta thì kẻ ấy không thấy ta một cáchthật sự. Chỉ có người nào chấp nhận những lời giáo huấn của ta mới thật sự nhìnthấy ta.

« Sau khi ta tịch diệt,Đạo Pháp thay ta làm vị thầy cho các con. Biết noi theo Đạo Pháp, ấy chính làcách các con tỏ lòng trung thành với ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trongcuộc đời của ta, ta không hề dấu diếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳngcó một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả nhữnglời giảng của ta đều được đưa ra một cách ngay thật và minh bạch.

« Này các con yêu quýcủa ta, đây là giây phút chấm dứt. Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ nhập vàoNiết bàn. Những lời này là những lời dặn dò cuối cùng của ta cho các con».

Người chép lại những lờinày của Phật xin chắp tay mong rằng :

- Vì Phật, chúng ta hãyđọc lại những lời nhắn nhủ trên đây thêm một lần.

- Vì tất cả chúng sinh,vì sự đau khổ của muôn loài, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa.

- Để gởi đến từng đơn vịnhỏ nhoi nhất của sự sống, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa, đọc thêm một lầnnữa…

Chúng ta nguyện sẽ đọclên và đọc lên cho từng chúng sinh một, ta đọc cho đến khi nào những lời dặn dòtrên đây của Phật trở thành những lời dặn dò xuất phát từ chính tâm thức ta, đểnhắn nhủ cho chính ta, nhắn nhủ những người chung quanh ta, kể cả những sinhlinh nhỏ nhoi nhất của sự sống. Khi những lời nhắn nhủ chân thật và tràn đầy Từbi trên đây của Phật trở thành làn hơi thở của của chính ta, thì biết đâu lúcấy ta cũng sẽ là một vị Phật ?

Bures-Sur-Yvette (Phápquốc)

Hoang Phong

(Biên soạn dựa theo một bàiviết của Thiền sư và Giáo sư Triết học ngưới Pháp Gérard Pilet, đăng trong nộisan của Hội Thiền học Quốc tế AZI (Association Zen Internationale), trụ sở tạiParis, và tài liệu của Bukkyo Dendo Kyokai (Society For the Promotion ofBouddhism), trụ sở tại Tokyo).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2014(Xem: 21052)
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát.
22/01/2014(Xem: 9054)
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín có từ “phát thú đạo tướng” , phân tách Tướng Đạo mà tất cả chư Phật chứng đắc, tất cả chư vị Bồ Tát phát tâm tu hành để mau chứng đắc quả vị Phật. Trên có từ “Phát Thú” nghĩa là phát tâm hướng về, cất bước ra đi hướng thẳng về một mục tiêu nhất định gọi là “Thú Hướng”. “Phát Thú Đạo Tướng” nghĩa là phân định các tướng sai khác của sự phát tâm hướng đến Đạo. Đạo tức là Bồ Đề, Niết Bàn mà chư Phật đã chứng đắc. Đó là Bản Giác, Nhất Tâm Chân Như, tự tướng của Nhất
19/01/2014(Xem: 8734)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
12/01/2014(Xem: 11804)
Johan Galtung là Giáo sư Đại học Hawaii và được mời thỉnh giảng trên 30 Đại học nổi tiếng khắp thế giới. Ông còn là Giám Đốc của Transcend và Peace Research Institute, Olso. Với trên 50 ấn phẩm và 1000 công trình nghiên cứu khoa học về Hoà Binh ông đã nổi danh là người sáng lập cho lĩnh vực Peace Studies. Với những đóng góp to lớn này ông được nhiều giải thưỏng cao qúy. Tác phẩm chính trong lĩnh vực Phật học là „Buddhism: A Quest for Unity and Peace” (1993). Các tiểu tựa là của người dịch.
25/12/2013(Xem: 6967)
Toàn tri toàn giác không thể được phát sinh mà không có nguyên nhân, bởi vì đâu phải mọi thứ luôn luôn là tòan tri toàn giác đâu. Nếu mọi thứ được sinh ra mà không liên hệ đến điều gì khác, chúng có thể tồn tại mà không có sự câu thúc - sẽ không có lý do tại sao mọi thứ không thể là toàn tri toàn giác.
24/12/2013(Xem: 7918)
Phần khảo sát trong Phật Học Từ Điển (đã trích dẫn) viết về Chân Như như sau: “Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt. Cái Chân Như thì đầy đủ nơi Phật. Nó cũng vẫn có nơi chúng sinh. Những chử dưới đều đồng nghĩa, đồng thể với Chân Như: Tự tánh thanh tịnh, Phật tánh, Pháp Thân, Như Lai Tạng, thật tướng, pháp giới, pháp tánh, viên thành thật tánh, Pháp vị.” Trong Duy Thức Luận có viết về ba Chân Như như sau: 1/ Vô tướng Chân Như: Chân Như không tướng; là cái thể của các pháp khắp cả, không có tướng hư chấp. 2/ Vô sanh Chân Như: Chân Như không sanh; các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra chứ hẳn là không thật có sanh .
24/12/2013(Xem: 10159)
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì : “Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác (vốn tỉnh giác sẳn). Cái Bổn Gíac ấy do bề trong ung đúc và nhờ cái duyên ngoài thầy dạy, mới khởi ra cái lòng chán chuyện tham cứu thuận theo bổn giác lần lần sanh ra có trí giác ngộ kêu là Thủy Giác (sau mới tỉnh giác). Bổn Giác đó tức là bốn đức (thường, lạc, ngã, tịnh) vốn thành sẵn vậy. Thủy Giác là bốn đức mới thành ra sau nầy vậy.”
20/12/2013(Xem: 37459)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
17/12/2013(Xem: 18163)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 8946)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]