Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi

01/07/201100:59(Xem: 3476)
23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những Câu Hỏi

Người hỏi: Chức năng của cái trí là suy nghĩ. Tôi đã trải qua nhiều năm suy nghĩ về những sự việc mà tất cả chúng ta biết – kinh doanh, khoa học, triết lý, tâm lý, nghệ thuật và vân vân – và bây giờ tôi suy nghĩ nhiều về Thượng đế. Từ việc tìm hiểu những biến cố của nhiều điều huyền bí và những tác giả tôn giáo khác, tôi được thuyết phục rằng Thượng đế tồn tại, và tôi có thể đóng góp những suy nghĩ riêng của tôi về chủ đề này. Có gì sai trái với việc này? Suy nghĩ về Thượng đế không giúp đỡ tạo ra nhận biết về Thượng đế hay sao?

Krishnamurti: Bạn có thể suy nghĩ về Thượng đế à? Bạn có thể được thuyết phục về sự tồn tại của Thượng đế bởi vì bạn đã đọc được tất cả những chứng cớ hay sao? Những người vô thần cũng có chứng cớ của anh ấy; anh ấy có thể đã nghiên cứu nhiều như bạn, và anh ấy nói rằng không có Thượng đế. Bạn tin rằng có Thượng đế và anh ấy tin rằng không có; cả hai đều có những niềm tin, cả hai bạn đều mất nhiều thời gian của các bạn để suy nghĩ về Thượng đế. Nhưng trước khi bạn suy nghĩ về điều gì đó mà bạn không biết, bạn phải tìm ra suy nghĩ là gì, phải vậy không? Làm thế nào bạn có thể suy nghĩ một điều gì đó mà bạn không biết? Bạn có lẽ đã đọc kinh Bible, kinh Bhagavad Gita, hay những quyển sách khác mà trong đó vô số những học giả uyên bác đã diễn giải khéo léo Thượng đế là gì, khẳng định điều này và phủ nhận điều kia, nhưng chừng nào bạn còn không biết qui trình suy nghĩ riêng của bạn, điều gì bạn suy nghĩ về Thượng đế có lẽ là xuẩn ngốc và nhỏ nhoi, và thông thường nó đều như vậy. Bạn có lẽ sưu tập nhiều chứng cớ cho sự tồn tại của Thượng đế và viết rất nhiều bài văn hay ho về nó, nhưng chắc chắn câu hỏi đầu tiên là, làm thế nào bạn biết được điều gì bạn suy nghĩ là sự thật? Suy nghĩ có khi nào tạo ra trải nghiệm về cái không thể biết được hay sao? Mà không có nghĩa rằng bạn phải chấp nhận một cách cảm xúc, một cách cảm tính, một cảm nghĩ vô ích nào đó về Thượng đế.

Vì vậy rất quan trọng phải tìm ra liệu cái trí của bạn có bị quy định hay không, hơn là tìm kiếm cái không bị quy định? Chắc chắn nếu cái trí của bạn bị quy định, mà nó là như vậy dù nó có tìm hiểu sự thật về Thượng đế nhiều bao nhiêu, nó chỉ có thể thâu lượm hiểu biết hay thông tin tùy theo tình trạng bị quy định của nó. Vì vậy suy nghĩ của bạn về Thượng đế là một lãng phí hoàn toàn của thời gian, nó là một phỏng đoán mà không có giá trị nào cả. Giống như tôi đang ngồi trong cánh rừng nhỏ này và ao ước được ở trên đỉnh núi kia (trong nền tảng quá khứ). Nếu tôi thực sự muốn tìm ra có cái gì trên đỉnh núi và vượt khỏi nó, tôi phải đi tới nó. Không tốt lành gì cả khi ngồi ở đây phỏng đoán, dựng lên những đền chùa, những nhà thờ, và hưng phấn về chúng. Điều gì tôi phải làm là đứng dậy, đi, đấu tranh, thúc đẩy, đến đó, và tìm ra; nhưng bởi vì hầu hết chúng ta đều không sẵn lòng làm việc đó, chúng ta hài lòng với việc ngồi ở đây và phỏng đoán về cái gì đó mà chúng ta không biết. Và tôi nói rằng sự phỏng đoán như thế là một cản trở, nó là một thoái hóa của cái trí, nó không có giá trị gì cả; nó chỉ mang lại nhiều hoang mang hơn, nhiều đau khổ hơn cho con người.

Thượng đế là điều gì đó không thể nói được, không thể diễn tả được, không thể đặt vào những từ ngữ, bởi vì nó phải luôn luôn ở cùng cái không biết được. Khoảnh khắc qui trình công nhận xảy ra, bạn quay lại trong lãnh vực của ký ức. Bạn hiểu rõ không? Ví dụ như bạn có một trải nghiệm ngay tức khắc của một cái gì đó lạ thường. Tại ngay khoảnh khắc đó không có người suy nghĩ nói rằng, “Tôi phải nhớ nó.” Chỉ có trạng thái trải nghiệm. Nhưng khi khoảnh khắc đó qua rồi, qui trình công nhận hiện diện. Làm ơn hãy theo sát điều này. Cái trí nói rằng, “Tôi có một trải nghiệm tuyệt vời và tôi ước rằng tôi có thể hưởng được nó nhiều hơn nữa”, vì vậy sự đấu tranh cho nhiều hơn bắt đầu. Bản năng thâu lợi, sự theo đuổi chiếm hữu của nhiều hơn, hiện diện vì những lý do khác nhau: bởi vì nó cho bạn vui thú, thanh danh, hiểu biết, bạn trở thành một uy quyền, và mọi chuyện vô nghĩa đó.

Cái trí theo đuổi cái đó mà nó đã trải nghiệm, nhưng cái đó mà nó đã trải nghiệm đã hết rồi, chết rồi, qua rồi. Muốn khám phá cái là, cái trí phải chết đi cái đó mà nó đã trải nghiệm. Đây không là cái gì đó, có thể được vun quén ngày sang ngày, có thể được thâu lượm, được tích lũy, được giữ chặt và rồi được nói và được viết về. Tất cả mọi việc mà chúng ta có thể làm là thấy rằng cái trí bị quy định và nhờ vào hiểu rõ về chính mình sẽ hiểu rõ qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta. Tôi phải hiểu rõ về chính tôi, không phải theo lý thuyết như tôi muốn là, nhưng như tôi thực sự là, dù xấu xa hay đẹp đẽ, dù ganh tị, ghen tuông, tham lợi. Nhưng rất khó khăn khi chỉ thấy người ta là gì mà không ao ước thay đổi nó, và chính ham muốn thay đổi đó là một hình thức khác của tình trạng bị quy định; và thế là chúng ta tiếp tục, chuyển động từ tình trạng bị quy định sang tình trạng bị quy định, không bao giờ trải nghiệm cái gì đó vượt khỏi cái bị giới hạn.

Người hỏi: Tôi đã lắng nghe ông nhiều năm và tôi đã khá giỏi trong sự quan sát những tư tưởng riêng của tôi và tỉnh thức được mọi sự việc tôi làm, nhưng tôi chưa bao giờ chạm được những dòng nước thăm thẳm hay trải nghiệm được sự thay đổi mà ông nói. Tại sao vậy?

K: Tôi nghĩ khá rõ ràng rằng tại sao không một ai trong chúng ta trải nghiệm cái gì đó vượt khỏi sự quan sát thuần túy. Có những khoảnh khắc hiếm hoi của một trạng thái cảm xúc mà trong đó chúng ta thấy, như nó đã là, sự rõ ràng của bầu trời giữa những đám mây, nhưng tôi không có ý nói bất kỳ điều gì thuộc loại đó. Tất cả những trải nghiệm như thế đều nhất thời và không có ý nghĩa bao nhiêu. Người hỏi muốn biết tại sao, sau nhiều năm quan sát này, anh ấy vẫn chưa tìm được những dòng nước sâu thẳm. Tại sao anh ấy phải tìm chúng? Bạn hiểu rõ không? Bạn nghĩ rằng bằng cách quan sát những suy nghĩ riêng của bạn bạn sẽ nhận được một phần thưởng; nếu bạn làm việc này, bạn sẽ nhận được cái khác lạ. Bạn thực sự không đang quan sát gì cả, bởi vì cái trí của bạn quan tâm đến kiếm được một phần thưởng. Bạn nghĩ rằng qua quan sát, qua tỉnh thức, bạn sẽ thương yêu nhiều hơn, bạn sẽ đau khổ ít hơn, bực dọc ít hơn, có cái gì đó vượt khỏi, vì vậy quan sát của bạn là một qui trình của mua bán. Với đồng xu này bạn đang mua cái khác lạ, mà có nghĩa rằng quan sát của bạn là một qui trình của chọn lựa; vì vậy nó không đang quan sát, nó không là chú ý. Quan sát là quan sát mà không có chọn lựa, thấy chính bạn như bạn là mà không có bất kỳ chuyển động của ham muốn để thay đổi, mà là một sự việc cực kỳ gian khổ khi thực hiện; nhưng điều đó không có nghĩa rằng bạn sẽ vẫn còn ở trong trạng thái hiện tại của bạn. Bạn không biết điều gì sẽ xảy ra nếu bạn thấy chính mình như bạn là mà không ao ước tạo ra một thay đổi trong điều bạn thấy. Bạn hiểu rõ không?

Tôi sẽ đưa ra một thí dụ và giải thích nó, và bạn sẽ thấy. Chúng ta hãy thí dụ là tôi bạo lực, như hầu hết mọi người đều như vậy. Toàn nền văn hóa của chúng ta là bạo lực – nhưng lúc này tôi sẽ không trình bày về cấu trúc của bạo lực bởi vì đó không là vấn đề chúng ta tìm hiểu. Tôi bạo lực và tôi nhận ra rằng tôi bạo lực. Chuyện gì xảy ra? Phản ứng ngay tức khắc của tôi là tôi phải làm một cái gì đó về nó, phải không? Tôi nói rằng tôi phải trở thành không bạo lực. Đó là điều gì mọi vị thầy đã bảo cho chúng ta trong hàng thế kỷ: nếu người ta bạo lực người ta phải trở thành không bạo lực. Vì vậy tôi luyện tập, tôi làm tất cả những sự việc thuộc học thuyết. Nhưng bây giờ tôi thấy điều đó xuẩn ngốc như thế nào bởi vì cái thực thể mà quan sát bạo lực, và ao ước thay đổi nó thành không bạo lực, vẫn còn là bạo lực. Vì vậy tôi quan tâm, không phải với sự diễn tả của thực thể đó, nhưng với chính thực thể. Tôi hy vọng bạn đang theo kịp tất cả điều này.

Bây giờ thực thể đó mà nói rằng, “Tôi phải không bạo lực” là gì? Thực thể đó có khác biệt bạo lực mà anh ấy quan sát hay không? Chúng có là hai trạng thái khác biệt hay không? Bạn hiểu rõ chứ, thưa các bạn, hay điều này quá trừu tượng? Chắc chắn bạo lực và thực thể mà nói rằng, “Tôi phải thay đổi bạo lực thành không bạo lực” cả hai đều là một. Công nhận sự kiện đó là kết thúc mọi xung đột, phải vậy không? Không còn xung đột của cố gắng để thay đổi, bởi vì tôi thấy rằng chính chuyển động của cái trí không bạo lực là chính kết quả của bạo lực.
Người hỏi muốn biết tại sao anh ấy không thể vượt khỏi tất cả những tranh cãi hời hợt này của cái trí. Bởi vì lý do rất đơn giản rằng, có ý thức hay không ý thức, cái trí đang luôn luôn tìm kiếm cái gì đó, và chính tìm kiếm đó mang lại bạo lực, ganh đua, ý thức của bất mãn hoàn toàn. Chỉ khi nào cái trí hoàn toàn tĩnh lặng mới có khả năng tiếp xúc được những dòng nước thăm thẳm.

Người hỏi: Khi chúng ta chết, chúng ta có được sinh lại trên quả đất này, hay chúng ta chuyển vào thế giới nào khác?

K: Câu hỏi này gây hứng thú cho tất cả chúng ta, người trẻ lẫn người già, phải vậy không? Vì vậy tôi sẽ tìm hiểu nó sâu sắc, và tôi hy vọng bạn sẽ đủ tỉnh táo để theo sát, không phải chỉ những từ ngữ, nhưng trải nghiệm thực sự của điều gì tôi sẽ thảo luận cùng bạn.

Tất cả chúng ta đều biết rằng chết tồn tại, đặc biệt những người già hơn, và cũng vậy những người trẻ mà quan sát nó. Người ta nói, “Hãy chờ cho đến khi nó đến và chúng ta sẽ xử lý nó.” Và những người già, mà gần cái chết hơn, đã lặp lại những hình thức khác nhau của an ủi.

Làm ơn theo sát và áp dụng việc này cho chính các bạn, đừng đặt nó vào một người nào khác. Bởi vì bạn biết rằng bạn sẽ chết; bạn có những lý thuyết về nó, phải không? Bạn tin Thượng đế. Bạn tin sống lại hay nghiệp lực và luân hồi. Bạn nói rằng bạn sẽ sinh lại ở đây hay trong một thế giới khác. Hay bạn lý luận về chết, nói rằng chết là điều không tránh khỏi, nó xảy ra cho mọi người; cái cây héo tàn đi, nuôi dưỡng đất đai, và một cây mới mọc lên. Hay khác hẳn bạn quá bận rộn với những lo âu, những buồn phiền, những ganh tị, những ghen tuông hàng ngày của bạn, với những ganh đua của bạn và giàu sang của bạn, nên không suy nghĩ về chết gì cả. Nhưng nó ở trong cái trí của bạn; có ý thức hay không ý thức nó ở đó.

Trước hết, liệu bạn có được tự do khỏi những niềm tin, những lý lẽ hay những dửng dưng mà bạn đã nuôi dưỡng về chết hay không? Liệu bạn có thể được tự do khỏi tất cả việc đó ngay lúc này? Bởi vì điều gì quan trọng là thâm nhập vào ngôi nhà của chết trong khi đang sống, trong khi còn ý thức, năng động, còn sức khỏe, và không phải chờ đợi sự đến gần của cái chết, mà có thể mang bạn đi ngay tức khắc qua một tai nạn, hay qua một bệnh tật mà từ từ làm cho bạn không còn ý thức. Khi chết đến nó phải là một khoảnh khắc lạ thường mà sinh động như đang sống.

Bây giờ, liệu rằng tôi, liệu rằng bạn có thể, thâm nhập vào căn nhà của chết trong khi đang sống hay không? Đó là vấn đề, không phải liệu có luân hồi, hay liệu có một thế giới khác nơi bạn sẽ sinh lại, mà cũng là quá không chín chắn, quá trẻ con. Một con người sống không bao giờ hỏi sống là gì và anh ấy không có những lý thuyết về sống. Chỉ có những con người dật dờ mới nói về mục đích của sống.

Vì vậy liệu bạn và tôi, trong khi sống, có ý thức, năng động, kèm theo tất cả những khả năng của chúng ta dù chúng có lẽ là gì chăng nữa, biết chết là gì được không? Vậy thì chết có khác sống hay không? Đối với hầu hết chúng ta, sống là một tiếp tục của cái đó mà chúng ta nghĩ là vĩnh cửu. Tên tuổi của chúng ta, gia đình của chúng ta, tài sản của chúng ta, những sự việc chúng ta quan tâm thuộc kinh tế, tinh thần, những đạo đức chúng ta đã vun quén, những sự việc chúng ta đã thâu lượm một cách cảm xúc; tất cả việc đó chúng ta muốn tiếp tục. Và khoảnh khắc chúng ta gọi là chết là một khoảnh khắc của cái không biết được. Vì vậy chúng ta bị kinh hãi, vì vậy chúng ta cố gắng tìm ra một an ủi, một loại thanh thản nào đó; chúng ta muốn biết liệu có một cuộc sống sau chết, và hàng tá sự việc khác. Những điều đó là những vấn đề không liên quan; chúng là những vấn đề dành cho những người lười biếng, cho những người không muốn tìm ra chết là gì trong khi đang sống. Vì vậy liệu bạn và tôi có thể tìm ra?

Chết là gì? Chắc chắn nó là sự kết thúc hoàn toàn của mọi thứ mà bạn đã biết. Nếu nó không là kết thúc của mọi thứ mà bạn đã biết, nó không là chết. Nếu bạn chết rồi vậy thì bạn không có gì phải sợ hãi. Nhưng bạn biết chết chưa? Đó là, liệu khi đang sống bạn có thể kết thúc sự tranh đấu mãi mãi này để tìm ra, trong cái không vĩnh cửu, cái gì đó sẽ tiếp tục. Liệu bạn có thể biết cái không thể biết được, trạng thái đó mà chúng ta gọi là chết, trong khi đang sống? Liệu bạn có thể gạt đi tất cả những diễn tả của việc gì xảy ra sau khi chết do bởi bạn đã đọc trong những quyển sách, hay do bởi sự ham muốn không ý thức của bạn để chiều theo những ra lệnh cho sự thanh thản, và thưởng thức hay trải nghiệm trạng thái đó – mà phải là lạ thường – ngay lúc này? Nếu trạng thái đó được trải nghiệm ngay lúc này, vậy thì sống và chết là một.

Vì vậy liệu tôi, người có giáo dục, hiểu biết rất nhiều, người có vô số những trải nghiệm, những đấu tranh, những tình yêu, những hận thù, có thể, liệu cái “tôi” đó có thể kết thúc? Cái “tôi” là ký ức được ghi lại của tất cả việc đó; và liệu cái “tôi” đó có thể kết thúc? Nếu không bị mang đến một kết thúc bởi một tai nạn, bởi một bệnh tật, liệu trong khi đang ngồi đây bạn và tôi có thể biết được kết thúc đó? Vậy thì bạn sẽ phát giác rằng bạn sẽ không còn hỏi những câu hỏi ngu xuẩn về chết và sự tiếp tục, hay liệu có một thế giới tiếp theo đây. Vậy thì bạn sẽ biết đáp án cho chính bạn bởi vì cái không thể biết được sẽ hiện diện. Vậy thì bạn sẽ gạt đi toàn huyên thuyên của sống lại, và nhiều sợ hãi – sợ hãi sống và sợ hãi chết, sợ hãi già nua và gieo khổ sở cho những người khác khi phải lo âu chăm sóc bạn, sợ hãi cô đơn và lệ thuộc – tất cả đều sẽ kết thúc. Đây không là những từ ngữ hão huyền. Chỉ khi nào cái trí kết thúc suy nghĩ dựa vào sự tiếp tục riêng của nó thì cái không thể biết được mới hiện hiện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2017(Xem: 8003)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
01/02/2017(Xem: 4134)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
29/01/2017(Xem: 9179)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 24443)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13278)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8546)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 6442)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 4659)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 10968)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 11886)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567