Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Từ quyển: Cuộc Sống Trước Mặt, Chương 7 với Những Người Trẻ

01/07/201100:59(Xem: 3987)
8. Từ quyển: Cuộc Sống Trước Mặt, Chương 7 với Những Người Trẻ

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Từ quyển: Cuộc Sống Trước Mặt, Chương 7
với Những Người Trẻ

Người hỏi: Cách dễ dàng nhất để tìm được Thượng đế là gì?

Krishnamurti:Tôi e rằng không có cách dễ dàng, bởi vì tìm được Thượng đế là công việc khó khăn nhất, một việc gian khổ nhất. Điều gì chúng ta gọi là Thượng đế không là điều gì mà cái trí sáng chế. Bạn biết cái trí là gì không? Cái trí là kết quả của thời gian, và nó có thể sáng chế bất kỳ cái gì, bất kỳ ảo tưởng nào. Nó có khả năng sáng chế những ý tưởng, tự chiếu rọi chính nó trong những ảo tưởng, trong tưởng tượng; nó liên tục tích lũy, đang loại bỏ, đang chọn lựa. Vì có thành kiến, chật hẹp, bị giới hạn, cái trí có thể vẽ lên hình tượng Thượng đế, nó có thể tưởng tượng Thượng đế là gì tùy theo những giới hạn riêng của nó. Bởi vì những vị thầy, những vị giáo sĩ, và những vị tạm gọi là cứu rỗi nào đó đã nói rằng có Thượng đế và đã mô tả ông ấy, cái trí có thể tưởng tượng Thượng đế trong những quy định đó, nhưng hình ảnh đó không là Thượng đế. Thượng đế là điều gì đó mà không thể tìm được bởi cái trí.

Muốn hiểu rõ Thượng đế, trước hết bạn phải hiểu rõ cái trí riêng của bạn. Điều đó rất khó khăn. Cái trí rất phức tạp và muốn hiểu rõ nó không phải dễ dàng. Nhưng lại rất dễ dàng khi ngồi xuống và chìm vào một giấc mộng nào đó, có những tầm nhìn, những ảo tưởng khác biệt, rồi sau đó nghĩ rằng bạn rất gần Thượng đế. Cái trí có thể tự dối gạt chính nó ghê lắm. Vì vậy muốn trải nghiệm thực sự điều đó mà có lẽ được gọi là Thượng đế, bạn phải hoàn toàn tĩnh lặng – và bộ bạn không phát giác rằng điều đó khó khăn cực kỳ à? Bạn không thấy là ngay cả những người lớn tuổi hơn cũng không bao giờ ngồi yên lặng, họ luôn luôn bồn chồn, họ luôn luôn cựa quậy ngón chân của họ và chuyển động bàn tay của họ hay sao? Theo phần thân thể thật khó khăn khi ngồi yên lặng, và nó càng khó khăn biết bao để cho cái trí được tĩnh lặng. Bạn có lẽ tuân theo vị đạo sư nào đó và cưỡng bách cái trí của bạn tĩnh lặng; nhưng cái trí của bạn không thực sự tĩnh lặng. Nó vẫn khuấy động, giống như đứa bé bị bắt đứng ở góc tường. Cái trí được hoàn toàn tĩnh lặng mà không có bất kỳ ép buộc nào là một nghệ thuật tuyệt vời, và chỉ lúc đó mới có thể có trải nghiệm cái đó mà có lẽ được gọi là Thượng đế.

Người hỏi: Thượng đế ở khắp mọi nơi phải không?

Krishnamurti: Bạn có thực sự thích thú để tìm ra hay không? Bạn đặt những câu hỏi, và sau đó không còn hứng thú; bạn không lắng nghe. Bạn có biết tại sao những người lớn hơn hầu như không bao giờ lắng nghe bạn? Hiếm khi họ lắng nghe bạn bởi vì họ bị vây bủa trong những tư tưởng riêng của họ, trong những cảm xúc riêng của họ, trong những thỏa mãn và đau khổ riêng của họ. Tôi hy vọng bạn đã nhận ra điều này. Nếu bạn biết quan sát và biết lắng nghe, thực sự lắng nghe, bạn sẽ tìm ra nhiều sự việc, không chỉ về con người nhưng còn về thế giới.

Ở đây cậu bé này đang hỏi Thượng đế có ở khắp mọi nơi hay không. Cậu ấy còn khá trẻ để đặt câu hỏi đó. Cậu ấy không biết được nó thực sự có ý nghĩa gì. Cậu ấy có lẽ thấy mơ hồ về điều gì đó – cảm thấy của vẻ đẹp, nhận biết chim chóc trong bầu trời, dòng nước đang chảy, một khuôn mặt trong sáng đang mỉm cười, một chiếc lá đang tung tăng trong cơn gió, một người phụ nữ đang vác một bó nặng. Và có tức giận, ồn ào, đau buồn – tất cả việc đó trong không gian. Vì vậy tự nhiên cậu ấy quan tâm và băn khoăn muốn tìm ra cuộc sống là gì. Cậu ấy nghe những người lớn hơn nói về Thượng đế, và cậu ấy thắc mắc. Rất quan trọng cho cậu ấy nên đặt một câu hỏi như thế, phải vậy không? Và cũng quan trọng như thế cho tất cả các bạn phải tìm được câu trả lời; bởi vì, như tôi đã nói ngày hôm trước, bạn sẽ bắt đầu nắm bắt được ý nghĩa của tất cả việc này ở bên trong, không ý thức được, thăm thẳm; và rồi khi bạn lớn lên, bạn sẽ có những hàm ý của những sự việc khác ngoài cái thế giới xấu xa của đấu tranh này. Thế giới rất đẹp đẽ, quả đất thật trù phú, nhưng chúng ta là những người phá hỏng nó.

Người hỏi: Mục đích thực sự của cuộc sống là gì?

Krishnamurti:Đầu tiên nó là cái gì bạn tạo thành nó. Nó là cái gì bạn tạo thành cuộc sống.

Người hỏi: Vì sự thật được quan tâm đến, nó phải là điều gì đó khác nữa. Tôi không đặc biệt thích thú cho một mục đích cá thể, nhưng tôi muốn biết điều gì là mục đích cho mọi người.

Krishnamurti:Làm thế nào bạn sẽ tìm được? Ai sẽ chỉ cho bạn? Bạn có thể khám phá điều đó bằng cách đọc sách hay sao? Nếu bạn đọc sách, một tác giả có lẽ cho bạn một phương pháp đặc biệt, trái lại một tác giả khác có lẽ trao tặng một phương pháp hoàn toàn khác hẳn. Nếu bạn tìm đến một người đang đau khổ, anh ấy sẽ nói rằng mục đích của cuộc sống là hạnh phúc. Nếu bạn tìm đến một con người đang chết đói, anh ấy đã không có đầy đủ lương thực trong nhiều năm, mục đích của anh ấy là được ăn uống no nê. Nếu bạn tìm đến một nhà chính trị, mục đích của anh ấy là trở thành một trong những người điều khiển, một trong những người cai trị của thế giới. Nếu bạn hỏi một phụ nữ trẻ, cô ấy sẽ nói rằng, “Mục đích của tôi là có được một em bé.” Nếu bạn tìm đến một vị khất sĩ, mục đích của anh ấy là tìm được Thượng đế. Mục đích, ham muốn sâu thẳm của con người thông thường là tìm ra cái gì đó gây thỏa mãn, gây dễ chịu; họ muốn một hình thức an toàn, an ninh nào đó, để cho họ sẽ không còn những ngờ vực, không còn những nghi vấn, không còn lo âu, không còn sợ hãi. Hầu hết chúng ta đều muốn một cái gì đó vĩnh cửu để chúng ta có thể bám víu, phải vậy không?

Vì vậy mục đích chung của cuộc sống cho con người là một loại hy vọng nào đó, một loại an toàn nào đó, một loại vĩnh cửu nào đó. Đừng hỏi rằng, “Đó là tất cả à?” Đó là sự kiện ngay lập tức, và đầu tiên bạn phải hoàn toàn quen thuộc với việc đó. Bạn phải nghi vấn tất cả việc đó – mà có nghĩa rằng, bạn phải tự nghi vấn chính bạn. Mục đích chung của cuộc sống con người được phủ dày trong bạn, bởi vì bạn là thành phần của tổng thể. Chính bạn muốn an toàn, vĩnh cửu, hạnh phúc; bạn muốn cái gì đó để bám víu.

Bây giờ muốn tìm ra cái gì đó vượt khỏi, một sự thật nào đó không thuộc cái trí, tất cả những ảo tưởng của cái trí phải được kết thúc; đó là, bạn phải hiểu rõ chúng và gạt chúng đi. Chỉ lúc đó bạn mới có thể tìm được sự thật thực sự, liệu có một mục đích hay không? Khi khẳng định rằng phải có một mục đích, hay tin tưởng rằng có một mục đích, chỉ hoàn toàn là một ảo tưởng khác mà thôi. Nhưng nếu bạn có thể nghi vấn tất cả những xung đột, những đấu tranh, những đau khổ, những hão huyền, những tham vọng, những hy vọng, những sợ hãi của bạn và thâm nhập chúng, vượt khỏi chúng và trên chúng, vậy thì bạn sẽ tìm ra.

Người hỏi: Nếu tôi phát triển những khả năng cao hơn liệu cuối cùng tôi sẽ thấy được cái tối thượng chứ?

Krishnamurti: Làm thế nào bạn có thể thấy cái tối thượng khi còn nhiều chướng ngại giữa bạn và cái đó? Đầu tiên bạn phải gỡ bỏ những chướng ngại. Bạn không thể ngồi trong một căn phòng đóng kín cửa mà biết được không khí trong lành như thế nào. Muốn có không khí trong lành bạn phải mở toang những cửa sổ. Gíống như vậy, bạn phải thấy được tất cả những trở ngại, những giới hạn và tình trạng bị quy định bên trong chính bạn; bạn phải hiểu rõ chúng và gạt chúng đi. Sau đó bạn sẽ tìm ra. Nhưng chỉ ngồi ở bên này và cố gắng tìm ra cái gì ở bên kia chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2017(Xem: 7962)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
01/02/2017(Xem: 4112)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
29/01/2017(Xem: 9156)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 24350)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13208)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8508)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 6418)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 4639)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 10941)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 11846)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567